Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Thiền Định Lý Thuyết 2



Ứng dụng 7 biến hành tâm sở Vi Diệu Pháp trong thiền định

Trước khi tiếp cận về phần lý thuyết của bài số 2, CTR xin trao đổi cùng quí độc giả vài nét chung chung về vấn đề thiền định. Nói theo ngôn từ của Phật giáo thì số lượng các trường phái Phật giáo ngày hôm nay còn nhiều hơn lá trong rừng. Chùa chiền mọc lên như nấm sau mưa, nhưng thực tế chúng ta thấy, hình như ít người tu đạt được kết quả (hay là có thể có những kết quả mà chúng ta không được biết).

Về tài liệu tu tập thì ngay cả các trường phái cùng là Phật giáo nguyên thủy, cũng sử dụng những loại tài liệu khác nhau.

Có rất nhiều tài liệu gọi là Vi Diệu Pháp. Điều rắc rối là trong một tài liệu Vi Diệu Pháp, thì cũng có đầy dẫy những mâu thuẫn đến mức vô lý, không thể hiểu được. Người dịch sách thì có sao họ cứ dịch như vậy. Do đó, có rất nhiều câu, nhiều chữ, nhiều phần bị trùng lấp, đối nghịch. Điều này làm cho người xem vô cùng mất thời gian, thậm chí là không thể hiểu được… Những tôn giáo khác thông thường họ chỉ có một vài tài liệu chứ không thiên kinh vạn quyển như Phật giáo, do đó khi làm công việc khảo cứu những tài liệu này, CTR cố gắng hết sức để gạn lọc. Hy vọng có thể cung cấp cho độc giả những tài liệu mang tính nhất quán và trung thực nhất. Dù rất nỗ lực nhưng đây chỉ là một hy vọng chứ không phải là một sự thật. Rất có thể CTR còn sai lầm rất nhiều vấn đề, và chưa chắc gì việc khảo cứu, sắp xếp, hệ thống hóa… đã đạt đến một mức độ đáng tin cậy nào đó.

Nếu quí độc giả có sử dụng những tài liệu của Vi Diệu Pháp để đối chiếu, thì quí độc giả sẽ thấy tính chất không thống nhất của các tài liệu. Mặt khác, quí độc giả cũng đừng quá âu lo khi đọc hoặc khảo cứu những tài liệu Vi diệu pháp mà thấy mình hiểu rất ít hoặc chẳng hiểu gì cả.

Với kinh nghiệm nhiều năm làm công việc khảo cứu, CTR hy vọng đã vận dụng được một số ý tưởng cơ bản của Vi Diệu Pháp để ứng dụng vào thực tế hành thiền.

Việc định tâm là một bài toán khó giải cho bất cứ ai là con người. Do đó, Vi Diệu Pháp có một hệ thống riêng của mình, để sắp xếp các loại tâm của các thực thể. Cách chia này chúng ta không thấy trong khoa học hiện đại ngày hôm naỵ

Nếu chia theo cảnh giới thì có 4 loại tâm:
1.Dục giới tâm
2.Sắc giới tâm
3.Vô sắc giới tâm
4.Siêu thế tâm

Nếu chia theo tính chất riêng của từng loại tâm thì có:
1.Bất thiện tâm
2.Thiện tâm
3.Dị thục tâm
4.Duy tác tâm

Nếu chia theo tầm vóc của tâm:
1.Tâm vương
2.Tâm sở

Nếu chia theo giá trị đạo đức

1.Bất thiện tâm
2.Vô nhân tâm
3.Tịnh quan tâm

Nếu chia theo mục đích tái sinh:
1.Dị thục tâm
2.Duy tác tâm

Nếu chia căn cứ vào căn nhân:
1.Hữu nhân
2.Vô nhân

Rất có thể còn những cách chia khác, ở những tài liệu VDP khác.

Những quí độc giả ít có kinh nghiệm về lý thuyết Phật giáo, đặc biệt là về những tài liệu Vi Diệu Pháp sẽ cảm thấy bối rối mất phương hướng, khi thấy cách sắp xếp, chia chẻ các loại tâm như trên. Lý do là vì có nhiều tài liệu Vi Diệu Pháp, mỗi cuốn lại do một luận sư viết ra, mỗi luận sư lại có những nhận xét, cách suy nghĩ, cách sắp xếp khác nhau.

CTR sẽ giải thích để quí độc giả làm quen với cách sắp xếp các loại tâm như trên. Hiểu biết các loại tâm là điều rất cần thiết, nếu quí độc giả có ý định đi trên con đường dài thiền định của truyền thống Phật giáo nguyên thủỵ

Sau đây CTR sẽ minh họa bức tranh tổng thể về vấn đề nàỵ

Theo tài liệu Vi Diệu Pháp, một thực thể như con người chẳng hạn, có cấu tạo tâm là vài trăm tâm. Càng lùi lại nấc thang tiến hóa thì số lượng tâm càng tăng lên và ngược lại.

Quí vị xem lại bảng chia tâm nói trên, và cố gắng nhớ được những tư tưởng cơ bản.

Bây giờ lấy thí dụ một “đơn vị tâm” là: tâm “sân” (từ bình dân gọi là cáu giận), và chúng ta bắt đầu giải thích theo quan điểm VDP.

Tâm này xét ở tiêu chuẩn đạo đức, được sắp vào bất thiện tâm, xét ở tiêu chuẩn cảnh giới, thì tâm này chỉ hiện hữu ở cảnh dục giới (tất nhiên bao gồm cả cảnh thiên dục giới), nhưng chắc chắn tâm này không thể hiện hữu ở cảnh sơ thiền hữu sắc. Lý do là vì ở sơ thiền hữu sắc có một tâm là khắc tinh, là đối nghịch và làm cho tâm “sân” triệt tiêu: đó chính là tâm TẦM. Do đó nếu có ai cho là họ có trình độ tam thiền tứ thiền gì đó mà còn có thể đánh nhau với con rồng hoặc với các…vị Phật vì lý do nào đó, là hoàn toàn không có cơ sở.

Nếu xét ở góc cạnh tái sinh của Tâm “sân”, thì chắc chắn tái sinh sẽ xảy ra. Xét ở căn nhân, thì tâm sân là hữu nhân…

Nói một cách vắn tắt thì gần như bất cứ một tâm nào đó, cũng có thể xét ở rất nhiều góc cạnh. CTR hy vọng lối chia chẻ này sẽ không quá phức tạp khó hiểu và tạo ra gánh nặng kiến thức dư thừa làm khổ tâm, khổ trí người tu thiền định. Nếu chúng ta lấy mục đích là sự giải thoát, là niết bàn, là khô cạn các phiền não…thì việc hiểu biết cặn kẽ các loại tâm về tất cả các mặt, rất có lợi cho người tu thiền định.

Người tu thiền định theo truyền thống Phật giáo, ở cảnh giới sơ thiền hữu sắc, thì tâm vương sơ thiền hữu sắc câu hữu với các tâm sở là: tầm, tứ, nhất tâm, hỉ, lạc, nhưng sự thật là sử dụng trên 30 đến 40 tâm sở. Nếu không hiểu rõ điều này; cụ thể là chấp vào thành quả của thiền định, thì tạo ra thiền thiện tâm, đưa đến kết quả là: thiền thiện dị thục tâm, có nghĩa là đưa đến luân hồi sanh tử. Nhưng nếu hiểu rõ cách sử dụng các tâm này, hành thiền với tâm trạng căn nhân, duy tác, thì hệ quả hoàn toàn khác. Rõ ràng rằng cùng tu thiền định, nhưng nhờ có kiến thức VDP nên đã tránh được một hệ quả, mà hầu hết người ta vô tình đều mắc phải. Việc hiểu rõ các yếu tố tâm, tuy vất vả thật, nhưng hệ quả cũng rất xứng đáng.

Sau khi chúng ta có những khái niệm tối thiểu, về cái lợi cái hại của việc hiểu biết các tâm trong VDP, CTR sẽ bắt đầu trình bày khoảng trên 30 tâm sở khi chúng ta tu sơ thiền hữu sắc.

Tâm sở là gì?

Tâm sở là những tâm nhỏ, có 4 đặc tính sau đây cùng với tâm vương.

- Cùng sanh với tâm vương.

- Cùng diệt với tâm vương

- Cùng một đối tượng với tâm vương

- Cùng căn với tâm vương

Trước nhất, CTR xin trình bày 7 biến hành tâm sở.

7 biến hành tâm sở là:

Xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn, tác ý

Ý nghĩa của từng từ ngữ:

Xúc: tiếp cận, chạm đến đối tượng. Đối tượng có thể là tinh thần hay vật chất. Nó là yếu tố đầu tiên khi chúng ta tiếp cận với đối tượng bằng các giác quan bình thường. Theo khoa học thì việc nhìn thấy mặt trăng là do các quang tử (photon) của mặt trăng đụng chạm vào con mắt chúng ta. Do đó, người ta sắp xếp xúc là yếu tố đầu tiên.

Thọ: sau khi tiếp xúc với một đối tượng tinh thần hoặc vật chất, thì chúng ta nhận lãnh, thọ lãnh một cảm giác nào đó, thí dụ chúng ta thọ nhận cảm tưởng ánh sáng mặt trăng là đẹp, thọ này gọi là thọ lạc. Tiếp cận với một cảnh tai nạn xe khủng khiếp, chúng ta thọ khổ.

Tưởng: ở đây là nhận biết đối tượng.

Tư: là suy nghĩ về đối tượng, định đoạt các hành động sau nàỵ

Nhất tâm: chú ý trên một đối tượng

Mạng căn: nuôi dưỡng đối tượng.

Tác ý: là đưa tâm đến đối tượng, cũng như một người lái con thuyền, đưa con thuyền tới đích.

Cách sử dụng 7 biến hành tâm sở khi thiền định:

Khi quí độc giả ít nhiều đã định tâm, hãy chú tâm để quán sát từng tâm một của 7 tâm sở nói trên.

Khi chúng ta quán tưởng mặt trăng chẳng hạn, tâm này gọi là tâm tầm. Nó có nghĩa là tìm kiếm, đụng chạm tới đối tượng là mặt trăng. Sau đó, chúng ta cảm nhận được tình cảm phát sinh khi quán được hình ảnh mặt trăng, tâm này gọi là thọ…Quí độc giả cứ tiếp tục như vậy với 30 – 40 tâm sở. Bộ não chúng ta sẽ trở nên quá tải với cách thức này và có thể đưa chúng ta nhập định.

Như phần trước CTR có trình bày, việc quán sát các tâm sở này rất là có lợi cho người tu thiền định. Vì chúng ta phải chú tâm vào quá nhiều vấn đề, liên tục không đứt quãng. Chủ đích chúng ta là tu định, thì bây giờ có quá nhiều đối tượng để tu định. Việc tìm hiểu ý nghĩa của nhiều loại tâm sở, vô tình chúng ta đang tạo ra một loại tu quán. Không những vậy, chúng ta còn có thể phát hiện ra nhiều tâm khác mà sách vở chưa nhắc tới. Mặt khác, chúng ta biết ngăn chặn những tâm không thích hợp, những bất thiện tâm lén lút xuất hiện trong lúc chúng ta tu thiền định.

Căn cứ vào kinh nghiệm của các Lạt Ma Tây Tạng, thì việc quán xét trên 30 tâm sở, trở thành một dạng đàn pháp. Cách này có thể làm cho ai cũng nhập định được, không cần thiết phải có tư chất thông minh.

CTR lạc quan tin tưởng rằng, với cách tập này nhiều quí vị sẽ thành công.

Trong bài viết tới CTR sẽ tiếp tục trình bày những tâm sở còn lại.

Kính chúc quí độc giả được nhiều may mắn.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-ly-thuyet-2.html