冥想理論1:選定主題的重要性
可視化對象的選擇的重要性
(靜心的主題)
從理論上講,我們想提出一些問題,你有這麼多的問題,讀者極大,實踐的基礎上冥想前,冥想的小乘學校。為了避免誤會,請允許譚賣給我只是重申, CTR發言人,唯一的工作,解釋,說明,解釋,資料...的小乘學校的你的讀者。 CTR本身並不具備自己的學校。
之前,有很多的問題,你的讀者還可能冥想練習:
是宗教的性質是什麼?塗是負擔得起的重塑?但是,為什麼需要修復?
TU是祈禱,咒語,冥想,沉思?
有必要設立神壇佛像不?
塗將帶我們去哪裡?為了能夠合併在一個至高無上的,或漫遊日與空行母,是世界教育的結果嗎?從那裡,它是一個工具,解放不給嗎?
有很多話題可視化,所以話題的選擇,依據在哪裡?由於他的老師需要到店自由基(如或多或少關閉)或國家風火元素易字給他們相應的部分嗎?
還有很多其他問題,這將給你的讀者。許多人認為,這樣的生活,儘管痛苦,但也多少喜悅幸福,所以也很不錯。塗有不知道有去任何地方,這麼多的法律做文章,立即遵守?這樣的問題似乎非常。
在本文的討論範圍之內,我們將優先考慮迫在眉睫的實際需要,應您可視化的對象與作者共享。
不能指望很多讀者對象是一個可視化工具,是一個小得多決定的階梯,把人幽思到你想要的境界。缺乏可視化對象的理解是,給我們帶來了其不想要的原因之一。
這些對象列在文檔中巨大的佛教學校。另一方面,你們中許多人已經進行不間斷地使用他的生活。的性質和成效,我們沒有必要討論。
這裡的中心有一個安排,根據其它標準的可視化對象。特別是點擊率的基礎上的技術標準文檔阿毗達摩,並根據經驗有效性的標準。我們設置了三種類型的對象。我希望各位讀者注意,不管使用的宗教物品,只是實踐,實踐是不相符的。
也就是說,對象是幫助人們打坐,實現集中,利息...
我們上面提到的三種類型的對象是:在月球上,一些簡單的花,顏色的大理石。
下面是一個理論來解釋這個對象的類型:
最好的法律標準的基礎上,上述對象的屬性:
的1.Vo人,因為它不符合,財產與不健康的心態:貪婪,仇恨,妄想或非常投入,非常遊戲,很SI 。
海岸,因為2.Huu存在的本質只是暫時的。
非法3.Huu ,因為它是感性的場景的對象,它是憂傷的來源。
4.Huu行為,因為它依賴於五蘊形式,感覺,知覺,意識。
而且還有很多其他的因素......
一個因素是我們特別有興趣眾多因素和身份的性質。該對象類型不具有上述因素,因此上下文之外的性教育。換句話說,這種類型的冥想有很多的機會,採取退出打坐冥想原始有機質。
這些可視化對象,可能會導致假感性的場景:
幾乎所有人都知道,案件聖特麗薩阿維拉天主教學校。這種沉思的女聖人耶穌雕像和更少的能量進入人體雕像。密宗是沒有提及西藏或中國,他們給佛像本身的生物能源。即使人操縱宗教也被稱為開放標籤的雕像。在世界各地的其他學校也很多,有意或無意地,它被稱為阿彌陀佛,佛是佛觀音獨立BA ,瑪麗,卡拉的母親......換句話說,對象,考慮ngiem ,集中,祈禱,沉思,也有明確的性別,即男性或女性。從法律的觀點考慮的對象的身份上是非常有用的。特別是藏族僧侶或集體使用冥想女神空行母。
精神分析的角度來看,這並不少見。生命在子宮內,子宮是最安全的地方。這個地方只有接受和不放棄。第一個出生的,出來了母親的子宮,這是人生的最嚴重的挑戰,因為客觀世界充滿了挑戰危險的敵人。一旦離開庇護所是最安全的,人們不斷帶來懷舊的,想起失去的天堂,是子宮。據精神,宗教符號是因內部糾紛。宗教符號是一種解放的形式隱藏的回憶。
根據阿毗達摩,以及精神,當我們上面可視化,尤其是如空行母的女神,那麼可以肯定它會帶我們到現場的性慾。此可視化工具,具有優良的結構,組合物中心,非常接近人的生命的原因。
曼陀羅,使用帶來介意效率非常高。它是人類的想像力的產物,應該是在世界各地,而不是西藏的特色。建立曼荼羅的原因是非常有效濃度高的情況下,因為它是非常複雜的,需要強大而持續的注意鍛煉身體。因此,該判決的作者亞歷山德拉大衛·尼爾,西藏僧侶,無論是聰明的投資,但使用曼陀羅工具 - 一個工具意外滿足的基本操作需要的心理過程,導致濃度。綜上所述,我們可以解釋這個特定宗教的人是否不聰明,但如果你使用一個良好的可視化工具,那麼集中的原因和影響是必然的結果。這是一個機械的後果。
阿彌陀佛,觀音菩薩的使用是非常流行的國家如越南,中國,韓國,日本......如何行使這些對象,會導致醫生到現場的性慾。
據傳說,阿彌陀的前身是一個王,有1000名兒童。 1000的4個孩子,現在是菩薩或佛,廟祀在越南盛行。建造敏銳的頭腦,並說,他發現相應的感性場景。這當然不能對應到現場禪定自己的身份,因為每個人都知道最好的物業禪定沒有男性,沒有女性由於誤解或不了解情況,滋生辯論無止境的,永遠不會結束。
綜上所述,本文的理論部分, CTR試圖擺脫對受試者的選擇打坐。選擇你喜歡的讀者。其實,並不是所有的宗教的人都像解放。也有喜歡打坐在良好的健康,定期對電視指南。其他人都望而卻步了世俗生活。有些人打坐,別人想宗教自由,但遠遠從解放精緻的路徑。無奈,於是他們很高興與他們的冥想練習的結果是樂趣,下一個目標日期範圍內的空行母他相投。但它也有是你的生命是無常的天性,自然是痛苦,應不斷尋求解脫,找到桑蒂因素。
CTR只想說,說了幾句話,但並不意味著完全阻止你。也許有一天,一步方式去找桑蒂因素的,你意識到太累了,並會進行許多西藏喇嘛做了,忘了生活是實踐總監好了,享受生活,除了空行母。
CTR是偏執的,當我寫這篇?
和未來的現實,將是最實用的答案。知道,當它來談話的時候,你的讀者會記得,譚曾服用此提醒大家。好吧,“一個新的橋樑。”
CTR僅工作提出選擇的菜單選項。畢竟,必殺技是一種精神狀態,個人的主觀心理狀態。這伊甸樂園是別人不知道的。
期待收到您的寶貴意見的
Tầm quan trọng của việc chọn đối tượng quán tưởng
(Đề mục thiền định)
Trong phần lý thuyết, chúng tôi xin đưa ra một số vấn đề mà có thế rất nhiều quí độc giả vô cùng thắc mắc, trước khi thực hành thiền định dựa trên cơ sở, thiền định của trường phái Phật giáo nguyên thủy. Để tránh hiểu lầm, xin cho phép Tam Tiểu Thư được nhắc lại là em chỉ người phát ngôn của CTR, chỉ làm công việc, thuyết minh, minh họa, giải thích, cung cấp thông tin… của trường phái Phật giáo nguyên thủy cho quí độc giả. Bản thân CTR không có một trường phái nào riêng của mình cả.
Có rất nhiều vấn đề, quí độc giả có thể nêu ra, trước khi thực hành thiền định:
Bản chất của tu là cái gì ? Tu phải chăng là tu sửa ? Mà tại sao lại cần phải tu sửa?
Tu có phải là đọc kinh, trì chú, trầm tư mặc tưởng, thiền định ?
Có cần phải lập bàn thờ và có các loại tượng Phật không?
Tu sẽ đưa chúng ta đi về đâu? Để có thể sát nhập với Đấng cao cả, hay để rong chơi ngày tháng với Đakini ; là thành quả của định dục giới ? Tu có thật sự là một công cụ để đưa tới giải thoát không?
Có rất nhiều đề mục quán tưởng, vậy việc chọn đề mục thì căn cứ vào đâu ? có cần nhờ đến ông thày để quán về căn cơ (thí dụ nghiệp sát nhiều hay ít) hoặc yếu tố đất nước gió lửa để có đề mục thích hợp cho dễ tu dễ chứng không ?
Ngoài ra còn rất nhiều câu hỏi khác, mà quí độc giả sẽ đưa ra. Nhiều người cho rằng cuộc đời này cho dù có nỗi khổ, nhưng cũng có nhiều niềm vui hạnh phúc ; thế nên cũng tốt lắm rồi. Tu thì chẳng biết có đi được tới đâu không, mà trước mắt phải tuân thủ biết bao nhiêu giới luật phiền phức ? Những câu hỏi như thế này dường như vô cùng nhiều.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi đặt thứ tự ưu tiên theo nhu cầu thực tế trước mắt, nên sẽ chia sẻ cùng quí hành giả về đối tượng quán tưởng.
Có thể nhiều độc giả không ngờ là : đối tượng quán tưởng là một công cụ, là một nấc thang ít nhiều quyết định, đưa người tu thiền định đến cảnh giới mà mình mong muốn. Thiếu hiểu biết về đối tượng quán tưởng là một trong những nguyên nhân đưa chúng ta đến nơi mà mình không mong muốn.
Những đối tượng được liệt kê trong những tài liệu của trường phái Phật giáo nhiều vô số kể. Mặt khác, nhiều quí vị đã từng mang ra sử dụng ròng rã cả đời của mình. Tính chất, hiệu quả thì chúng ta không cần phải bàn đến.
Ở đây CTR lại có một cách sắp xếp các đối tượng để quán tưởng dựa vào những tiêu chí khác. Nói cụ thể là CTR dựa vào tiêu chí kỹ thuật của tài liệu Vi Diệu Pháp và dựa vào tiêu chí hiệu quả của thực nghiệm. Chúng tôi xin nêu ra 3 loại đối tượng. Mong quí độc giả lưu ý để phân biệt là những đối tượng này dùng để tu định, tu chỉ, chứ không phải là tu quán.
Điều đó có nghĩa là, những đối tượng này giúp người tu thiền định, đạt được định tâm, an chỉ tâm…
Ba loại đối tượng mà chúng ta vừa đề cập ở trên đó là : mặt trăng, một bông hoa đơn giản nào đó, một viên bi có màu sắc.
Sau đây là phần lý thuyết để giải thích về loại đối tượng này:
Căn cứ vào tiêu chuẩn sắc pháp, thì những đối tượng nói trên có tính chất:
1.Vô nhân, vì nó không tương ưng, không câu hữu với các bất thiện tâm: tham, sân, si hoặc vô tham, vô sân, vô si.
2.Hữu duyên, vì sự hiện hữu chỉ mang tính chất tạm thời.
3.Hữu lậu, vì nó là đối tượng của cảnh dục giới, nó là nguồn gốc của phiền não.
4.Hữu vi, vì nó lệ thuộc ở ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Và còn nhiều yếu tố khác nữa…
Một yếu tố mà chúng ta đặc biệt phải quan tâm là yếu tố vô nhân và bản tánh sắc. Loại đối tượng này không có những yếu tố nói trên, do đó nằm ngoài cảnh định dục giới. Nói một cách khác, quán tưởng loại đối tượng này có nhiều cơ may, đưa người tu thiền định đến cảnh sơ thiền hữu sắc.
Những đối tượng quán tưởng có thể đưa hành giả đến cảnh định dục giới :
Có lẽ ai cũng biết, trường hợp thánh nữ Theresa Avila của trường phái Công giáo. Vị thánh nữ này chiêm nghiệm tượng Chúa và ít nhiều đã đưa năng lượng của con người vào bức tượng. Trường phái Mật Tông không kể là của Tây Tạng hay Trung Quốc, họ hay đưa năng lượng sinh học của bản thân mình vào bức tượng. Thậm chí người ta còn làm thao tác tôn giáo, gọi là mở nhãn cho một pho tượng. Ngoài ra còn vô số trường phái khác trên khắp thế giới, vô tình hay hữu ý, người ta gọi Phật A Di Đà là ÔNG Phật, Phật Quán Âm Tự Tại là Phật BÀ, Đức Mẹ Maria, Mẹ Kara…Nói một cách khác, các đối tượng dùng để chiêm ngiệm, để tập trung tư tưởng, để cầu xin, để quán tưởng, đều có giới tính rõ ràng, có nghĩa là nam hay nữ. Nói theo quan điểm của sắc pháp thì các đối tượng này là hữu nhân. Đặc biệt các tu sĩ Tây Tạng hay sử dụng nữ thần gọi chung là Đakini để quán tưởng.
Đứng về mặt phân tâm học thì điều này cũng chẳng có gì là lạ. Đời sống trong tử cung, trong bụng mẹ là nơi an toàn nhất. Một nơi mà chỉ có nhận và không phải cho. Việc sanh ra đời, đi ra khỏi tử cung của người mẹ, đó là thách thức kinh hoàng nhất của đời người, vì thế giới khách quan đầy rẫy những thách thức nguy hiểm, thù địch. Khi ra khỏi nơi trú ẩn an toàn nhất này, con người mang nỗi hoài hương triền miên, nhớ về một thiên đường đã đánh mất là bụng mẹ. Cũng theo phân tâm học, thì các biểu tượng tôn giáo là hệ quả của việc tranh chấp nội tâm. Chính các biểu tượng tôn giáo là một hình thức giải thoát các ẩn ức.
Căn cứ vào Vi Diệu Pháp, cũng như phân tâm học, khi chúng ta quán tưởng những vị nói trên, đặc biệt là các nữ thần như Đakini chẳng hạn, thì chắc chắn nó sẽ đưa chúng ta đến cảnh định dục giới. Lý do vì công cụ quán tưởng này có cấu tạo sắc, cấu tạo tâm, rất gần gũi với đời sống của con người.
Việc sử dụng các Mạn đà la, đưa lại hiệu quả định tâm rất cao. Nó là sản phẩm tưởng tượng của con người nên có khắp nơi trên thế giới, chứ không phải là đặc sản của Tây Tạng. Lý do các Mạn đà la tạo ra được hiệu quả định tâm rất cao vì kịch bản của nó vô cùng phức tạp, đòi hỏi người tập luyện phải chú tâm mạnh mẽ và liên tục. Do đó, theo nhận định của tác giả Alexandra David Neel, thì những tu sĩ Tây Tạng, không có tư chất thông minh, nhưng nhờ sử dụng công cụ Mạn đà la - một công cụ vô tình đáp ứng được những thao tác cơ bản cần thiết của các tiến trình tâm, đưa đến việc định tâm. Tóm lại, chúng ta có thể giải thích cụ thể như thế này: những người tu cho dù không thông minh, nhưng nếu sử dụng một công cụ quán tưởng tốt, thì việc định tâm là hệ quả tất yếu của nhân quả. Đó là một hệ quả cơ học.
Việc sử dụng tượng Phật A Di Đà, Phật Quan Âm rất phổ biến ở các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... Cách tập luyện với các đối tượng này, sẽ dẫn người tu đến cảnh định dục giới.
Theo truyền thuyết thì tiền thân của vị Phật Di Đà là một ông vua nào đó, có đến 1000 đứa con. 4 trong 1000 đứa con, hiện tại là Bồ Tát hoặc Phật, được thờ phổ biến ở các chùa Việt Nam. Cấu tạo tâm và sắc của ÔNG Phật nói trên tương ứng với cảnh Định dục giới. Nó chắc chắn không thể tương ứng với cảnh sơ thiền hữu sắc, vì ai cũng biết ở sơ thiền hữu sắc không có nam, không có nữ…Chính vì việc ngộ nhận này hay vì không hiểu rõ, nên sanh ra những cuộc tranh luận bất tận, không bao giờ kết thúc.
Tóm lại, trong phần lý thuyết của bài viết này, CTR cố gắng làm sáng tỏ về việc chọn đối tượng để tu thiền định. Việc chọn lựa là tùy theo ý thích của quí độc giả. Trên thực thế không phải tất cả mọi người đều thích tu giải thoát. Có vị cũng thích tu thiền định để có sức khỏe tốt như trên ti vi thường hướng dẫn. Những vị khác thì do chán nản cuộc sống thế gian. Một số người tu thiền định khác thì muốn tu giải thoát, nhưng thấy con đường giải thoát còn xa diệu vợi. Lực bất tòng tâm, do đó họ bằng lòng với thành quả tu thiền định của mình là vui chơi, tiêu dao ngày tháng bên cạnh Đakini tâm đầu ý hợp của mình. Nhưng lại cũng có quí vị cho là cuộc sống mang tính chất vô thường, bản chất là phiền não, nên kiên định đi tìm giải thoát, đi tìm yếu tố Santi.
CTR chỉ muốn nói đôi lời tâm sự chứ hoàn toàn không có ý làm nản lòng quí vị. Có thể một ngày nào đó, trên bước đường thiên lý đi tìm yếu tố Santi, quí vị nhận ra mình quá mỏi mệt và sẽ ứng xử như nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng đã từng làm, đó là quên đi cuộc sống tu hành đạo hạnh, an hưởng cuộc sống bên cạnh Đakini.
CTR có bị hoang tưởng khi viết ra điều này không?
Tương lai và thực tế sẽ là câu trả lời thiết thực nhất. Biết đâu đến lúc nào đó khi đụng chuyện, quí độc giả sẽ chợt nhớ ra rằng Tam Tiểu Thư đã từng nhắc quí vị điều này. Thôi thì “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”.
CTR chỉ làm công việc trình bày thực đơn, tùy quí vị lựa chọn. Nói cho cùng thì niết bàn chỉ là một trạng thái tinh thần, một trạng thái tâm lý chủ quan của từng cá nhân. Vườn địa đàng của người này chưa chắc đã là địa đàng của người khác.
Mong nhận được ý kiến đóng góp của quí độc giả.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-ly-thuyet-1-tam-quan-trong.html