Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

冥想練習2:分析的禪修方法在阿昆達摩 Thiền Định thực hành 2: Phân tích PP hành thiền bằng Vi Diệu Pháp


數的1綜述。
1.Chung我們試圖找到一個私人的地方,我的床是實用的,適合冥想練習。
2。時間:對個人的生理和心理依賴,有些人喜歡早起,有些人喜歡睡懶覺,選擇最合適的時間給自己。嘗試冥想的習慣是可以隨時隨地。事實上,如果你這樣做,那麼我們會非常有信心,因為死者可以選擇的地點和時間。
3.Chon找到自己適合的位置,手感舒適。鬆弛,舒適的尺度是什麼?答案是在這個位置上,我們可以睡覺,作好。
4.Tu選擇對象的可視化,例如: 6場星,兩個三角形重疊。
5.Chung ,我們可以組成這些對象冥想,沒有必要要求幫助的人。對象只能在一定期間內的時間僅使用。如果反复使用,該對象變得乏味,不再有效,以使我們的心停滯不前。不斷尋求改變話題。
6,說記得要集中在這個問題上:
•專注於一個單一的字符,這個字符不知道什麼,但注意的是關注。
•注意的水平,你會發現自己同一個對象。

這兩個語句外,來自藏傳密宗的學校。

可能有更多的讀者,千萬不要有足夠的時間來了解西藏密宗學校,所以聽到這個詞的密宗,你認為它是一所學校的神奇的實踐規則。其實,這所學校集中的特殊濃度。作為藏傳密宗物濃度似乎是堅實的基礎,骨幹,是萬能鑰匙打開所有的門神秘主義者。因此,它們很專業專心專注。總之,它似乎是密宗藏語言工具真空,法國......所有這些都是為了使醫生可以達到最高級別的護理。




該階段的濃度:

根據阿毗達摩,我們的思想,通過3個階段的重點是:

觀察對象用肉眼稱為前部長( parikamma這個詞)

*閉上你的眼睛,但仍然可以想像對象,稱為粗下午( Uggaha這個詞的)

*對象是通過光的狀態,被稱為光學部長(這個詞Patibhara )




商譽的過程如下:

範圍:試圖找到對象。具體來說,當小姐坐著,我們要盡量記住圖片月亮,皎潔如可能。

四:盡量保持從丟失的月球圖像。如果你做了上述的兩個任務,在心理學,推論是最有興趣的產生商譽。

最受關注:心臟停滯不前。這可以發生在很短的時間,或者更長的時間,這取決於利益結構中,個人身份組成。

我希望各位讀者注意到了這一點:心靈是最心停滯不前,但並不意味著我們必須要知道自己的身份禪定。譚站定,只是意味著我們暫時失去意識暫時正常。我們的工作對應到一定的境界,又是另一回事。

很多人誤以為心停滯不前,失去了知覺暫時正常,在某些領域具有幾個實體,聲稱已經達到佛教涅槃。事實上,很多人在這種狀態下,能夠滿足死者親屬。這很容易解釋,因為我們的心靈結構,其結構的狐猴中心,有許多相互兼容。

喜:很高興達到最佳的精神狀態。這種心態在現實生活中並不存在。由於心靈的特殊性質多打坐,讓大家開心一下。

:幸福可以比較,作為一個醉人的吸毒者,但也有其他的事情,幸福不會有副作用,如使用麻醉品。




在實踐中,點擊率已經提出了一些冥想的科目,因為科目取得優異的結構要求阿毗達摩方法。它是為你的讀者可能會奇怪的物體。因此,奇怪的物體應該能夠創建一個高度關注,希望是更容易照顧。

該中心鉛例句,用意念, CTR的建議,它看起來很簡單的外觀。但是你的讀者可能沒有想到,是基於材料阿昆達摩上是領先的例子,這種關注已經遊說,使30至40的心理活動系統,創建狀態關注。

CTR許可解釋你不知道阿毗達磨可以得到基本外觀。的心臟的大小(如服裝大小)根據阿昆達摩,分為兩種類型。大型稱為意識,伴隨小。你可以用下面的例子來說明概念的意識和精神狀態:一間教室,有許多的桌子和椅子...意識是教室,有精神的家具,桌子,講台..讀者需要明白一個概念, ,也每個字的意思是使用在阿昆達摩材料。要記住這一點,我們有沒有其他的方式來學習單詞的含義,就像學習外語。起初,我們慢慢習慣的話,但把握不住思想的問題的文件。

談到在越南的材料阿昆達摩幾十年現在有很多,但最重要的是多麼的業務,複製書籍。大家都說這是偉大的材料,超高,但問題是如何使用這種材料阿昆達摩?換句話說,就是如何把頁面理論轉化為具體的工具,以幫助人們打坐?如何阿昆達摩可以成為北極星,北極星,地圖,讓人們可以靜心向前發展的信心?缺乏阿昆達摩星光制導的打坐修煉成為一個冒險,完全看運氣!




當我們到達心臟時,會發生什麼事?

假設有一些讀者,當你真正實現上述技術,取得了一點點的精神狀態心態固步自封,也許將發生以下情況:
1.Nho這種技術使得頭腦冷靜的頭腦,暫時忘記憂慮焦急的生活,走的快睡著了,渾然不覺在很長一段時間有可能是短期的。
2,用途濃縮技術,但並不複雜,它反而變得迷惑的心靈,交流任職。
的3.Khi停滯不前不在乎誰打坐發現無數的光點,稱為SA星系,或者找到一個亮點,被稱為歐洲的模型妮在一個比較大的額頭。發現自己到另一側傾斜,傾斜,有時它去實現,不管是什麼你可以看到自己。
4.Co看到死者親屬,見陌生人,看到一個熟人,找到自己在隧道光在前面。
5位置以自我為中心,但不知道往哪個方向走,我不知道做什麼,怎麼做,什麼不該做,因為我沒有經驗......因此,帶來了莫名其妙的情緒。

綜上所述,有兩種可能性,可能發生在缺乏經驗的冥想:
1.Lui回在進化的道路上,他們經常去的死者,可能是親戚,陌生人。由於在腦海中的不確定性和不理解全部或到現場,因此,它被稱為地獄。這是比人的境界的情況更糟糕。他們不區分太陽,清晰的土地,很多時候下午和晚上。小組首頁的實體,皮膚黝黑,不善。在這一領域的道路往往不知道去哪裡,總是不知道如何找到你的出路。如果你是幸運的,然後再有稀疏的農村,這樣的準則並不清楚地知道哪裡去了......總之,現場有痛苦的所有特徵。
2。如果運氣好的話,人們打坐,具有相對較高的中心結構比普通品種,常見的本地災難現場。領域頗為相似的場景,包括書籍,梅魯山腳下(梅魯山只有一個字來說明的境界,而不是如山,因為我們通常認為) 。像熱帶雨林茂密的叢林中,這種境界,但沒有雨,男,女...

上面的描述能力只屬一般,常見到一個新的禪修。我們也知道, “中心頭,中心所有的文物” ,讓一個人會遇到冥想的境界,不能告訴所有。這取決於組成的個人關注。事實上,我們從來沒有發現兩個人,講述冥想的經驗相同。因為沒有結構性的心都是一樣的,那麼,如何才能在同一個領域。




為什麼精心冥想,我們解決任何仁慈嗎?

如果我們實施的所有進程表示關注事態發展的初衷:

範圍,四核,獨一味,喜悅,樂觀的態度。

晶體的中心的外觀如下:蝕刻意識

憤怒,貪婪,懶惰,煩躁,持懷疑態度。

這是很容易理解的解釋。雖然我們尋求的對象稱為範圍集中,然後憤怒不能同時存在。雖然我們竭盡所能,努力保持不賠的對象,心靈渴望消除強制性。停滯不前心靈的最佳時間是頭腦,那麼我們當然不能認為分心是偶然的,我們能不能至少在頭腦中的混亂。總之,各種有機卓越禪定中心,任何藥物的劑量治療上述商譽。因此,當我們明白這一點,那麼你的讀者發現上述中心,除了導致三昧,另一種是仍然有可能消除任何仁慈。只有找到了一點點的心靈孤獨,讓你的讀者看到的獨特的自然,神奇的阿毗達摩材料,但我們無法找到任何其他文件。

這使得我們不知道這個文件是否是在同一時間或企業誕生後,它也有很多幾十個世紀前撰寫的。為什麼這個古老的時間在人類歷史上,人們已經進化為人類太遠。即使進入21世紀,月球車到火星只需要12分鐘,這是我們沒有一個學人的心靈,如阿毗達摩材料已被記錄。




親愛的讀者,

這是慣例,但這種做法是由於部分是看不見的,無數的照片,我們需要用言語來形容。練習冥想的排序操作,選擇那種已經下定決心。

如果你想打坐了堅實的基礎,然後我們被迫禪定自己的身份意識和精神狀態檢查。想提前到冥想課,我們必須知道如何去安排選擇適當的照顧。

另一方面,有理解的元素,使的身份,因為身份不同領域組成。當你明白這個問題,我們不要陷入,當他會見了佛,當他遇到了鬼...混亂,不知道如何解決,說:“認識佛擋殺佛,殺鬼的遭遇馬“ 。的原則,說阿毗達摩佛教思想,殺,殺鬼,是邪惡的頭腦就是利息。這是非常有害的,在任何角度任何地方打坐。它創造所謂的友好的人民,不僅是一種不道德的。這種精神是一記實地考察,採取輪迴。

一個常見的問題,每個人都害怕,那就是保持問題。關於唯一的真正的生活作風,生活方式,風俗習慣,在其他領域,我們認為實體的做法是高於人的境界。我們可以提供一個相當簡單的圖片說明如下:如果有人去了法國,美國......我們必須學會講法國或美國。喜歡吃肉,如果合適的男性和女性之間的關係過於...的生活方式不適合現場禪定自己的身份。在房地產領域禪定身份,取得了一系列的興趣,因此不可能存在的憤怒。同樣,因為最令人興奮的,溝通,關係不應該是尋找快樂的,樂觀的男性和女性。

問題是不是言教強制性的,但更確切地說,它是進化階梯的宗教權利。

上面的知識似乎是理論上的,但在冥想沒有這樣的認識,將帶領我們無盡的混亂,傷害自己。

在接下來的文章:冥想理論2 ,點擊率將呈現一個相當複雜的問題(你希望讀者不會氣餒) ,描述30至40伴隨冥想課程的意義在一般和特定的禪定。

這篇文章有兩個好處:

讓你的讀者有一個相對的概念,牢牢的層結構的中心,在一般冥想。

他在靜坐中,你我的讀者都有權觀察。例如6種不同的場景,觀察精神狀態是:範圍,季度,獲獎,努力,快樂,性別。在三摩地,我們要盡量記住上面的中心,那麼你也有讀者的眼光來解釋的意思是什麼?四是什麼?贏得什麼?查詢我的自我與心靈與否。只有與公眾關注的一些注意只有這樣,這種思維會讓我們知道超載。讀者誰突然看到這副作用的中心。雖然心臟,你的讀者要盡量保持記憶的7個變量和它的精神意義上的,這會讓你的讀者機械濃度。不經意間,我們已經使用了法律論壇,創建一個國家的極大興趣。有珍貴的讀者會狠狠的濃度,峰值,在任何你的讀者從未嚐過

CTR的讀者向你保證,讀者,如果你申請這個過程機械和徹底,我們還可以創建一種精神狀態,不像西藏僧侶,男人這個著名的老法。




最後,三個國家級信件代表CTR博客上感謝你的讀者的興趣。點擊率不會有一個具體的學校冥想本身。一切都在冥想,小乘學校所有的理論和實踐。 CTR的工作是收集,整理,安排的信息,可能是小乘學校。小乘教派和拉賈瑜伽學校的材料有許多不同的版本。因此,整理,分析,綜合和應用,其實是一個相當長的距離。 CTR的觀點是不保護或反駁任何學校的,但只是試圖使恆星,尋找信息,從實際經驗得出,呈現給讀者,可以得到最客觀的。希望讀者冥想的路徑是非常有用的信息。
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-thuc-hanh-2.html
Thiền Định thực hành 2: Phân tích PP hành thiền bằng Vi Diệu Pháp
Phân tích PP hành thiền bằng Vi Diệu Pháp




Tóm lược bài số 1.
1.Chúng ta cố gắng tìm một địa điểm riêng tư, giường ngủ của mình là nơi thực tế, lý tưởng để tu thiền định.
2.Thời gian: lệ thuộc vào tâm sinh lý của từng cá nhân, có người thích dậy sớm, có người thích ngủ trễ, chọn thời gian nào phù hợp nhất đối với mình. Cố gắng tạo ra thói quen là có thể thiền định bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Thật vậy, nếu làm được điều này thì chúng ta sẽ rất tự tin; vì khi chết đâu thể chọn địa điểm và thời gian.
3.Chọn một vị thế nào thấy phù hợp với chính mình, cảm thấy thoải mái. Cái gì là thước đo về sự thư giãn, thoải mái? Câu trả lời là trong vị thế đó, chúng ta có thể ngủ được, đó là vị thế tốt.
4.Tự chọn lựa đối tượng để quán tưởng, thí dụ như: ngôi sao 6 cánh, là hai tam giác chồng vào nhau.
5.Chúng ta có thể tự sáng tác ra những đối tượng để quán tưởng, không cần phải nhờ vả ai cả. Đối tượng nào cũng chỉ có thể dùng trong một thời gian nào đó mà thôi. Khi sử dụng nhiều lần, đối tượng đó trở nên nhàm chán, không còn hiệu nghiệm để làm cho tâm chúng ta đứng im. Liên tục tự tìm các đối tượng để thay đổi.
6.Cố gắng nhớ lại câu nói về vấn đề chú tâm:
•Chú tâm vào một vật duy nhất, đến nỗi không còn biết gì ngoài vật chú tâm đang chú tâm.
•Chú tâm đến mức độ, mình thấy như mình với đối tượng là một.

Hai phát biểu nói trên, được rút ra từ trường phái Mật Tông Tây Tạng.

Có thể có nhiều quí độc giả, không có thì giờ để tìm hiểu về trường phái Mật Tông Tậy Tạng, nên khi nghe tới chữ Mật tông, quí vị liên tưởng đó là một trường phái tu luyện phép tắc thần thông. Thật ra trường phái này đặc biệt chú trọng đến việc tập trung tư tưởng. Dường như Mật giáo Tây Tạng coi vấn đề tập trung tư tưởng mạnh mẽ là nền móng, là xương sống, là chiếc chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa huyền môn. Vì vậy họ vô cùng chú tâm đến kỹ thuật tập trung tư tưởng. Nói tóm lại, hình như đối với Mật giáo Tây Tạng, các công cụ chân ngôn, đàn pháp… đều nhắm mục đích là làm cho người tu có thể đạt được mức độ định tâm cao nhất.




Các giai đoạn của tập trung tư tưởng:

Theo tài liệu Vi Diệu Pháp, thì việc tập trung tư tưởng của chúng ta đi qua 3 giai đoạn:

* Quan sát bằng mắt thường một đối tượng được gọi là sơ tướng (Parikamma Nimitta)

* Nhắm mắt nhưng vẫn hình dung được đối tượng, gọi là thô tướng (Uggaha Nimitta)

* Đối tượng chuyển qua một trạng thái là ánh sáng, gọi là quang tướng (Patibhara Nimitta)




Tiến trình của các thiền chi như sau:

Tầm: là cố gắng đi tìm đối tượng. Cụ thể là khi ngồi công phu, chúng ta cố gắng nhớ ra hình ảnh mặt trăng, rõ nét nhất có thể.

Tứ: cố gắng giữ cho hình ảnh mặt trăng không bị mất đi. Nếu làm được hai thao tác nói trên về tâm lý, thì hệ quả tất yếu là sanh ra thiền chi nhất tâm.

Nhất tâm: là tâm đứng im. Việc này có thể xảy ra trong thời gian rất ngắn, hoặc có thể dài, tùy theo cấu tạo tâm, cấu tạo sắc của từng cá nhân.

Mong quí độc giả để ý điều này: nhất tâm là tâm đứng im, chứ không có nghĩa là chúng ta đã đến được cảnh sơ thiền hữu sắc. Tâm đứng im, chỉ có nghĩa là chúng ta mất đi ý thức bình thường tạm thời trong giây lát. Việc chúng ta tương ưng với một cảnh giới nào đó, lại là vấn đề khác.

Rất nhiều người hiểu lầm rằng khi thấy tâm đứng im, mất đi ý thức bình thường tạm thời, gặp một vài thực thể ở cảnh giới nào đó, lại cho là mình đã nhập niết bàn gặp Phật. Thật vậy, ở trạng thái này, rất nhiều người có thể gặp các thân nhân đã quá cố. Việc này rất dễ giải thích, vì cấu tạo tâm của chúng ta, và cấu tạo tâm của các vong linh, có nhiều điểm tương thích lẫn nhau.

Hỉ: mừng rỡ vì đạt được trạng thái là nhất tâm. Trạng thái tâm này không hiện hữu trong cuộc sống đời thường. Vì tính chất đặc biệt của thiền chi nhất tâm nên làm cho chúng ta vui mừng.

Lạc: Hạnh phúc này có thể so sánh, như một người sử dụng chất say, nhưng có điều khác biết là hạnh phúc này không có phản ứng phụ như người sử dụng chất say.




Trong phần thực hành, CTR có đề xuất một số đối tượng để quán tưởng vì những đối tượng này đạt yêu cầu về cấu tạo sắc pháp của Vi Diệu Pháp. Rất có thể những đối tượng này hơi lạ đối với quí độc giả. Vì đối tượng lạ nên có thể tạo được mức độ chú tâm khá cao, hy vọng có nhiều khả năng đưa tới định tâm.

Việc dẫn dụ tâm bằng những câu nói, bằng những tư tưởng mà CTR đề xuất, thì nhìn vẻ bề ngoài rất đơn giản. Thế nhưng rất có thể quí độc giả không ngờ, là căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp, thì việc dẫn dụ tâm này đã vận động làm cho 30 đến 40 tâm sở hoạt động một cách có hệ thống, để tạo ra trạng thái chú tâm.

CTR xin phép giải thích để quí vị nào chưa biết về Vi diệu pháp có thể có được cái nhìn cơ bản. Theo tài liệu Vi Diệu Pháp, thì kích cỡ của tâm (kiểu như size quần áo) được chia làm hai loại. Loại lớn gọi là tâm vương, loại nhỏ gọi là tâm sở. Có thể dùng thí dụ sau đây để minh họa khái niệm về tâm vương và tâm sở: một phòng học thì có nhiều bàn, ghế... Tâm vương là cái phòng học, còn tâm sở là bàn ghế, bảng, bục.. Quí độc giả rất cần phải nắm được khái niệm này, đồng thời cũng phải thuộc được ý nghĩa của từng từ ngữ được người ta sử dụng trong những tài liệu Vi Diệu pháp. Để nhớ được điều này, chúng ta không có cách nào khác là học ý nghĩa của từ ngữ y như học ngoại ngữ. Ban đầu chúng ta từ từ làm quen với các từ ngữ, chứ chưa thể nắm được vấn đề tư tưởng của tài liệu.

Nói về tài liệu Vi Diệu Pháp thì ở Việt Nam có rất nhiều từ mấy thập kỷ nay, nhưng đa phần chỉ là sao kinh, chép sách. Ai cũng nói đó là tài liệu rất hay, rất cao siêu; nhưng vấn đề là làm sao để có sử dụng tài liệu Vi Diệu Pháp này? Nói một cách khác là làm sao biến những trang sách lý thuyết, thành những công cụ cụ thể để trợ giúp người tu thiền định? Làm thế nào để Vi Diệu Pháp có thể trở thành kim chỉ nam, thành ngôi sao Bắc Đẩu, thành tấm bản đồ, để cho người tu thiền định có thể tiến bước với niềm tin? Thiếu ánh sao Vi Diệu Pháp dẫn đường việc tu thiền định sẽ trở thành một cuộc phiêu lưu đầy may rủi!




Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta đạt được định tâm ?

Đặt giả thuyết là có một số quí độc giả khi triển khai trên thực tế kỹ thuật nói trên, đã tạo được ít nhiều trạng thái định tâm hay tâm đứng im, có thể những điều sau đây sẽ xảy ra:
1.Nhờ kỹ thuật định tâm này làm cho tâm yên ổn, tạm quên đi những âu lo khắc khoải của cuộc sống, ngủ mê đi, không biết gì trong một thời gian có thể dài, có thể ngắn.
2.Ứng dụng kỹ thuật định tâm này, nhưng chưa được tinh xảo, thì thay vì định tâm lại trở nên mê muội, trạo cử.
3.Khi tâm đứng im ít nhiều, người tu thiền định thấy vô số các điểm sáng, gọi là hà sa, hoặc thấy một điểm sáng ở trước trán tương đối lớn, gọi là mô ni châu. Có khi lại thấy mình nghiêng bên này, nghiêng bên kia, có lúc lại muốn quay về phía nào đó, không thấy thân vật chất mình đâu.
4.Có thể thấy những thân nhân đã quá cố, thấy người lạ, thấy người quen, thấy như mình đi trong một đường hầm có ánh sáng ở phía trước.
5.Đạt được định tâm, nhưng chẳng biết đi đường nào, không biết mình phải làm gì, nên làm cái gì, không nên làm cái gì, vì mình chẳng có kinh nghiệm gì cả… Do đó, mang tâm trạng phân vân.

Tóm lại, có hai khả năng có thể xảy ra cho một người tu thiền định thiếu kinh nghiệm:
1.Lùi lại trên con đường tiến hóa: họ hay gặp các người đã quá cố, có thể người thân, người lạ. Do tâm bất định và không hiểu rõ gì cả nên hay tới những cảnh mà người ta gọi là địa ngục. Đây là những cảnh xấu hơn cảnh giới của loài người. Họ không phân biệt Trời, đất rõ ràng, thời gian thường là lúc chiều và tối. Các thực thể ở trong các căn nhà tập thể, tối tăm, nghèo nàn. Đường đi ở trong khu vực này thường loanh quanh không biết đi đâu, tìm mãi đường ra không biết làm sao ra. Nếu may mắn ra được, thì lại gặp cảnh làng quê thưa thớt, đường lối không rõ ràng chẳng biết đi về đâu…Nói tóm lại, cảnh giới có tất cả những đặc trưng của cảnh khổ.
2.Nếu may mắn, người tu thiền định, có một cấu tạo tâm tương đối cao hơn loài người bình thường, thì thường gặp cảnh địa thiên. Cảnh giới này khá giống với cảnh sách vở có kể đến, là ở dưới chân núi Tu Di (núi Tu Di chỉ là một từ ngữ để minh họa về cảnh giới, chứ không phải như một quả núi như chúng ta thường nghĩ). Cảnh giới này rừng núi rậm rạp kiểu như rừng nhiệt đới, nhưng không có mưa nhiệt đới, có nam, có nữ…

Những mô tả trên đây chỉ là một số khả năng chung chung thường xảy ra cho một người mới tu thiền định. Chúng ta cũng biết là “Tâm đứng đầu, tâm tạo tác tất cả”, do đó cảnh giới mà một người tu thiền định sẽ gặp, không thể nào kể hết. Nó lệ thuộc ở cấu tạo tâm của từng cá thể. Thật vậy, chúng ta không bao giờ tìm thấy hai cá thể, lại kể lại kinh nghiệm thiền định giống y như nhau. Vì cấu tạo tâm không ai giống ai cả, nên làm sao có cảnh giới giống nhau được.




Tại sao khi công phu thiền định, chúng ta giải quyết được bất thiện tâm?

Nếu chúng ta triển khai một cách bài bản thì tiến trình của các tâm có diễn tiến nêu sau:

Tầm, tứ, nhất tâm, hỉ, lạc.

Sự xuất hiện của các tâm này là khắc tinh của các loại tâm kể sau:

Sân hận, tham dục, hôn trầm, phóng tâm, hoài nghi.

Việc giải thích điều này cũng khá dễ hiểu. Trong lúc chúng ta chú tâm đi tìm đối tượng nào đó gọi là tầm, thì tâm sân hận không thể hiện hữu cùng một lúc. Trong lúc chúng ta cố gắng, nỗ lực duy trì đối tượng để đừng mất, thì tâm tham dục bắt buộc phải triệt tiêu. Đến lúc nhất tâm là tâm đứng im, thì tất nhiên chúng ta không thể phóng tâm là nghĩ lung tung, chúng ta không thể mê muội trong lúc nhất tâm. Nói tóm lại, một loạt các tâm của sơ thiền hữu sắc, là liều thuốc để trị các bất thiện tâm kể trên. Do đó, khi hiểu được việc này, thì quí độc giả phát hiện ra những tâm nói trên, ngoài công năng đưa đến nhập định, lại còn một khả năng khác là triệt tiêu các bất thiện tâm. Chỉ với việc tìm hiểu một số tâm nho nhỏ này thôi, chắc quí độc giả cũng thấy tính chất độc đáo, vi diệu của tài liệu Vi Diệu Pháp, mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ tài liệu nào khác.

Điều này khiến chúng ta kinh ngạc tự hỏi, dù tài liệu này đã được trước tác cùng lúc hay là sau khi những bộ kinh ra đời, thì cũng đã cách đây nhiều chục thế kỷ. Tại sao trong lịch sử loài người vào thời xa xưa này, lại có người tiến hóa quá xa đối với nhân loại. Thậm chí thế kỷ 21, xe tự hành đã lên được sao hỏa chỉ mất có 12 phút, mà chúng ta lại không có một tài liệu nào tìm hiểu được cấu tạo tâm của con người, như Vi Diệu Pháp đã từng ghi lại.




Kính thưa quí độc giả,

Đây là phần thực hành, nhưng do là thực hành về một phần vô hình, vô ảnh, nên chúng ta bắt buộc phải diễn tả bằng lời nói. Thực hành thiền định chính là những thao tác sắp xếp, chọn lựa… các loại tâm đã cấu tạo nên mình.

Nếu muốn có một cơ sở vững chắc để tu thiền định, thì chúng ta buộc lòng phải khảo sát các loại tâm vương và các loại tâm sở của sơ thiền hữu sắc. Muốn tiến lên các lớp thiền định, thì chúng ta phải biết cách sắp xếp chọn lựa các tâm phù hợp.

Mặt khác, còn phải hiểu các yếu tố cấu tạo nên sắc, bởi lẽ cấu tạo của sắc rất khác nhau ở các cảnh giới. Khi hiểu rõ vấn đề này, chúng ta mới không rơi vào tình trạng, lúc thì gặp Phật, lúc thì gặp ma…Lúng túng quá không biết giải quyết làm sao, đành đưa ra câu nói “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma”. Trên nguyên tắc Vi Diệu Pháp mà nói, ý nghĩ giết Phật, giết ma, là những tâm được gọi là bất thiện tâm. Nó rất bất lợi cho người tu thiền định xét ở bất cứ góc cạnh nào. Nó tạo ra nhân nên gọi là hữu nhân, không những vậy còn là một tâm bất thiện. Tâm này là một tâm dị thục, có nghĩa là đưa tới luân hồi sanh tử.

Một vấn đề mà thường ai cũng e ngại, đó là vấn đề giữ giới. Giới sự thật chỉ là lề lối sinh hoạt, lối sống, phong tục, tập quán của những thực thể ở những cảnh giới khác, mà chúng ta cho là cao hơn cảnh giới loài người. Chúng ta có thể đưa ra một hình ảnh khá dễ hiểu để minh họa như sau : Nếu ai đó định đi nước Pháp, Mỹ… thì chúng ta phải học nói tiếng Pháp hoặc Mỹ. Nếu thích quan hệ nam nữ một cách thái quá, thích ăn thịt động vật…thì lối sinh hoạt này không phù hợp với cảnh sơ thiền hữu sắc. Ở cảnh giới sơ thiền hữu sắc, có cấu tạo tâm là tầm, do đó không thể có sân hận hiện hữu. Tương tự như vậy, vì nhất tâm và có hỉ, lạc, nên không thể quan hệ nam nữ để tìm kiếm hỉ, lạc.

Vấn đề giữ giới không phải là một việc bắt buộc, mà đúng hơn, đó là quyền lợi của người tu trên nấc thang tiến hóa.

Những kiến thức trên đây có vẻ như thiên về lý thuyết, nhưng trong lúc thiền định mà thiếu những hiểu biết này, sẽ đưa chúng ta đến vô số những lầm lẫn, tai hại cho chính bản thân mình.

Trong bài viết kế tiếp: Thiền định lý thuyết 2, CTR sẽ trình bày một đề tài khá phức tạp (hy vọng quí độc giả sẽ không nản lòng), là mô tả ý nghĩa của 30 đến 40 tâm sở của các lớp thiền định nói chung và sơ thiền nói riêng.

Bài viết này có hai cái lợi:

Làm cho quí độc giả có một khái niệm tương đối vững chắc về cấu tạo tâm của các lớp thiền định nói chung.

Trong khi thiền định, quí độc giả có một cái tôi phải quán sát. Lấy thí dụ quán sát 6 biệt cảnh tâm sở là: tầm, tứ, thắng giải, tinh tấn, hỉ, dục. Trong lúc nhập định, chúng ta cố nhớ những tâm kể trên, rồi quí độc giả còn phải tự giải thích ý nghĩa của Tầm là cái gì? Tứ là cái gì? Thắng giải là cái gì? Mình tự kiểm tra xem mình có những tâm này hay không. Chỉ với việc chú tâm tới một số tâm nào thôi theo cách suy nghĩ như trên cũng sẽ làm cho ý thức chúng ta quá tải. Độc giả bỗng nhiên thấy tác dụng phụ của việc này, là đưa đến định tâm. Trong lúc định tâm, quí độc giả lại tiếp tục cố nhớ đến 7 biến hành tâm sở và ý nghĩa của nó… Việc này sẽ làm cho quí độc giả định tâm một cách cơ học. Vô tình chúng ta đã sử dụng một loại đàn pháp, tạo ra trạng thái định tâm một cách tuyệt vời. Có thế quí độc giả sẽ định tâm một cách dữ dội, cao điểm; mà từ trước đến giờ quí độc giả chưa từng nếm trải

CTR đoan chắc với quí độc giả rằng nếu quí độc giả áp dụng thao tác này một cách máy móc và triệt để, thì chúng ta cũng tạo ra trạng thái định tâm, không khác gì những tu sĩ Tây Tạng, đã sử dụng các đàn pháp nổi tiếng xưa nay.




Cuối cùng, Tam Tiểu Thư xin được thay mặt cho CTR blog chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí độc giả. CTR không có một trường phái tu thiền định nào riêng của mình cả. Tất cả những gì được trình bày trong những bài lý thuyết và thực hành thiền định, đều là của trường phái Phật giáo nguyên thủy. Công việc của CTR chỉ là sưu tầm, hệ thống hóa, sắp xếp…những thông tin mà có lẽ là của trường phái Phật giáo nguyên thủy. Những tài liệu của trường phái Phật giáo nguyên thủy và trường phái Raja Yoga có rất nhiều phiên bản khác nhau. Do đó, việc đối chiếu tài liệu, phân tích, tổng hợp… rồi mang ra ứng dụng trên thực tế, là cả một quãng đường khá dài. Quan điểm của CTR là không bảo vệ hay bài bác trường phái nào cả, mà chỉ cố gắng làm sao, tìm ra những thông tin, rút kinh nghiệm từ thực tế, để trình bày cùng quí độc giả, khách quan nhất có thể được. Hy vọng những thông tin đó, giúp ích được cho quí độc giả trên con đường tu thiền định.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-thuc-hanh-2.html