Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Thiền định lý thuyết 3


Thiền định lý thuyết 3




6 B i ệ t C ả n h T â m S ở
Tầm / Tứ / Thắng Giải / Tinh Tấn / Hỉ / Dục


* 6 Biệt Cảnh Tâm Sở gồm: Tầm / Tứ / Thắng Giải / Tinh Tấn / Hỉ / Dục.
* 7 Biệt Hành Tâm Sở gồm: Xúc / Thọ / Tưởng / Tư / Nhất Tâm / Mạng Căn / Tác Ý.
* 5 Thiện Tâm Sắc Giới gồm: Tầm / Tứ / Nhất Tâm / Hỉ / Lạc.

Trong 8 Thiện Dị Thục Tâm cũng có Tâm: Hỉ / Lạc.

Tại sao một Tâm vừa thuộc chủng loại này vừa thuộc chủng loại khác? Tại sao một Tâm vừa là Tâm Vương, vừa là Tâm Sở? Việc này có thể làm cho quý độc giả cảm thấy khó khăn, lẫn lộn khi tìm hiểu Vi Diệu Pháp.

Câu trả lời là:

CTR có đề cập trong những bài viết trước là một Tâm thuộc Vi Diệu Pháp, được xem giống như một nguyên tố hóa học. Do vậy nó có rất nhiều tính chất khi xem xét Tâm ở rất nhiều góc cạnh khác nhau.

Nếu xét ở góc cạnh tầm cỡ to nhỏ, thì Tâm này có thể thuộc về một loại Tâm lớn, nhưng đồng thời cũng có thể là Tâm nhỏ. Cũng một Tâm này, có thể hiện hữu ở Cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc, nhưng cũng có thể hiện hữu ở Cảnh Thiền Vô Sắc, thí dụ Tâm Lạc. Cũng một Tâm này, vừa có thể là Thiện Tâm, Dị Thục Tâm, có nghĩa là Tâm này đưa chúng ta đến Luân Hồi Sanh Tử, nhưng Tâm này cũng có thể là Tâm Duy Tác, nếu biết cách sử dụng không có tác ý. Rất mong quý độc giả quan tâm tới giải thích nói trên.

Mặt khác, những yếu tố Tâm của Vi Diệu Pháp, không mang tính chất cứng nhắc, thiếu sự mềm dẻo. Một yếu tố Tâm của Vi Diệu Pháp, xét về tất cả các mặt, hết sức là mềm dẻo, đa dạng, phong phú. Mặt khác còn phải kể đến ý nghĩa mà tùy từng tác giả sử dụng, mỗi người sử dụng mang tính chất biểu tượng khác nhau. Chúng ta có thể so sánh với ngôn ngữ toán học, trường phái toán học, ký hiệu toán học. Mỗi khoa học gia lại sử dụng, khai thác ít nhiều theo luận lý của mình.



.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.







ý n g h ĩ a 6 B i ệ t C ả n h T â m S ở







Tầm / Tứ / Thắng Giải / Tinh Tấn / Hỉ / Dục



Tầm: Đây là tâm sở quan trọng nhất của Sơ Thiền Hữu Sắc.

Tâm này có ý nghĩa đặc biệt là nó đàn áp các Tâm khác trên Đối Tượng.

Ở một vị thế khác nó còn có tên là Siêu Thế Đạo Tâm, Chánh Tư Duy.




Tứ: Tiếp tục đàn áp tâm trên đối tượng, như con ong bay xung quanh

một bông hoa. Tâm này trừ diệt tâm hoài nghi.




Thắng Giải: Là Tâm trên Đối Tượng, quyết định, lựa chọn như một quan tòa ra bản án.

Tinh Tấn: Cương quyết thực hiện, là trụ cột chống đỡ căn nhà.




Hỉ: Hoan hỉ, thích thú. Tâm Hỉ vừa ở trong khu vực của Thiện Tâm,

đồng thời cũng trong khu vực của Bất Thiện Tâm.

Đây là một kinh nghiệm mong quý độc giả ghi nhớ.




Dục: Ao ước, muốn làm. Tâm này hiện hữu ở 3 khu vực khác nhau

(Bất Thiện Tâm, Vô Nhân Tâm, Tịnh Quan Tâm). Xin giải thích như sau,

Tham Dục có thể là mong muốn những điều Bất Thiện, nhưng cũng có thể ham

muốn những điều không thiện, không ác, lại có thể ham muốn những điều chân chánh.

Rất mong quý độc giả làm quen với lối trình bày mang tính chất Vi Diệu Pháp này.




. . . . . . . . .




Cách ứng dụng để quan sát các Tâm (6 Biệt Cảnh Tâm Sở):


Sau khi làm những thủ tục, những tiến trình của từng cá nhân.
Chúng ta tìm một đối tượng đã chọn lựa từ trước để chú tâm.
Chúng ta nhắm mắt, ngồi bất động hoặc nằm, chúng ta tưởng tượng,
hình dung là mình nhìn từ luân xa Ajna ra phía đằng trước, cố gắng tìm thấy
hình ảnh đối tượng mình muốn quán tưởng, trong một thời gian mau nhất,
hình ảnh rõ nét nhất, và duy trì thời gian lâu nhất.

Công việc này là một tiến trình tâm lý, gọi là: Tầm, Tứ … Chúng ta liên tiếp
làm công việc này và cố nhớ trong công việc này có tất cả 35 Tâm Sở kèm theo.
Ngoài 7 Biến Hành Tâm Sở chúng ta đã học và ứng dụng,
thì nay chúng ta có thêm 6 Biệt Cảnh Tâm Sở.




. . . . . . . . .




Cách Quán Tưởng với 6 Tâm mới


Tầm: Tôi đang cố gắng để tìm ra Đối Tượng Quán Tưởng.

Tôi nghĩ đây là một Tâm quan trọng trong Thiền Định,

Tâm này đàn áp các Tâm khác, Tâm này gọi là Tầm.




Tứ: Tôi tiếp tục đưa Tâm liên tục lên Đối Tượng.

Tôi biết rằng đây là Tâm Tứ, tôi biết là tôi lựa chọn,

tôi đang quyết định chọn Đối Tượng nói trên …

Chúng ta tiếp tục làm với những Tâm khác.


. . . . . . . . .




Sự hữu ích của cách tập này


* Chúng ta hiểu rõ về tất cả các loại Tâm mà chúng ta đang sử dụng để tu Thiền Định,

* Chúng ta hiểu rõ công việc làm của mình chứ không phải là mù quáng.

* Nhờ việc quán sát các Tâm Sở, ta tự tin kỹ thuật Thiền Định mà mình đang thực hành.




.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.


Như nhóm CTR đã nhiều lần trình bày, thao tác này vô hình chung làm người tu Thiền Định phải chú ý tới quá nhiều Đối Tượng. Nó làm cho các giác quan, các khả năng tinh thần bị quá tải. Chúng ta Chú Tâm vào công việc này mạnh mẽ và liên tục, không khác gì một kịch bản dạng Man đa la (Mandala) mà các tu sĩ Tây Tạng thường sử dụng. Theo chủ quan của CTR, nếu quý độc giả nào đó có hứng thú với kỹ thuật này, thì việc Định Tâm có thể nằm trong tầm tay.

Mặt khác, thao tác này còn làm cho quý độc giả dần dần sở đắc được những kiến thức VDP. Đồng thời, nó có thể giúp phát hiện thêm những hiểu biết mới về những tài liệu mang tính chất huyền thoại do chứa đựng đầy rẫy những bí ẩn, thách thức trí tuệ con người qua nhiều thế kỷ. 六個不同的心靈風景
冥想理論3




心理六種不同的場景
範圍

優勝者
功夫

慾望



- 譚七個特種作戰部
其中包括:
提升
芹苴
思想

正義
一心
基於網絡
影響
* 5球譚添
其中包括:
範圍

一心

幸福

八水土不服添潭潭:歡樂,幸福。

為什麼心靈只是這個類別中的其他類?為什麼心靈是雙方在聯合中心,部有一個心?這可以使讀者感到困難,了解阿昆達摩混亂。

答案是:

CTR在以前的文章中提到的阿毗達摩中心,被認為是一種化學元素一樣。所以它有很多特質記時考慮了很多不同的角度。

考慮到小角度身材,其中心可能是一個偉大的心靈的一部分,但也可以是小心思。這又是一記中可以存在禪定禪有機卓越的 ,但也可以是場景中的無形的冥想,介意我們的例子。這也是一個中心,可能只是添潭潭水土不服,這意味著,該中心給我們帶來了輪迴,但頭腦也可以心靈Abyakata ,如果不使用工作。我們希望您感興趣的讀者如上所述。

另一方面,中心元素的阿昆達摩,而不是剛性的性質,缺乏靈活性。阿毗達摩心的元素之一,在各方面而言,是非常靈活,多樣和豐富。另一方面,更不用提這個意義上說,作者使用,每個用戶性質不同的符號。我們可以比較數學,高中數學,數學符號的語言。每個科學家使用,更談不上利用你的邏輯。



·: *' ¨¨ `* :· · : *' ¨¨ ` *: ·。







六種特殊含義的精神景觀







範圍

優勝者
功夫

慾望



範圍:這是最重要的心理禪定有機卓越。

該中心具有特殊的意義,因為它抑制了其他中心的對象。

在其他位置,它也被稱為大潭道超越的,正確的思想。




四:持續打擊對象為中心,如蜜蜂飛來飛去

一朵花。這消除心中懷疑的心態。




冠軍:心靈上的對象,決定,選擇作為一個法院的法官。

努力:堅決執行支柱支柱的房子。




喜:喜悅,興奮。無論是在面積譚添熱情,

也是不道德的中心區域。

這是一個經驗,你的讀者會記得。




教育:慾望,想要做什麼。該中心存在於三個不同的方面

(不道德潭潭無根,淨利息) 。請解釋如下,

貪婪可能希望不道德的,但也火腿

想要的東西都不好,不是邪惡的,真正的慾望。

我們希望各位讀者熟悉自然的方式呈現這個阿毗達摩。




。 。 。 。 。 。 。 。 。




如何觀察心靈應用( 6個特殊景觀服務中心) :


後的程序,過程中的個體。
我們發現從前面選擇的對象進行對焦。
我們閉上眼睛,坐下或躺在房地產,我們想像,
我想像鑑於在前面的AJNA輪,試圖找到
物體的圖像,您希望顯示在最​​快速的時間內,
清晰的圖像,維持時間最長。

這項工作是一個心理過程,稱為:範圍,四成一排...
這項工作,要盡量記住這一切工作伴隨35 。
另外七個變量行政服務中心,我們已經學會並應用,
但現在我們有另外六個特殊景觀服務中心。




。 。 。 。 。 。 。 。 。




六個新的思維方式與熟練


範圍:我試圖找出知覺的對象。

我認為這是靜心的一個重要中心,

潭潭是另一個打擊,被稱為智力遊戲。




四:我對象上,繼續圍繞不斷。

我知道,這是心臟,我知道,我選擇,

我決定題材...

我們將繼續與另一個心靈。


。 。 。 。 。 。 。 。 。




這種做法的有用性


我們了解我們用來練習冥想的心靈,

*我們理解我們的工作是不是盲目的。

*感謝監督中心處,我們有信心,他的冥想技術實行。




·: *' ¨¨ `* :· · : *' ¨¨ ` *: ·。


由於CTR組一再表明,這種操作使得人們無形的冥想太多關注的主題。這是有道理的,精神上超載能力。我們感興趣的是這個強大而持續的工作,不像曼荼羅形式的腳本(曼陀羅) ,西藏僧侶經常使用。如果您對此技術感興趣的讀者,它根據CTR的主觀,可能是因為你的注意力就在眼前。

另一方面,這個操作也逐漸使讀者獲得正法的知識。同時,它可以幫助發現新的見解,這份文件包含了由傳奇充滿了神秘感和挑戰人類的心靈了幾百年的性質。...

http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-ly-thuyet-3.html

Ấn chú và công năng


Ấn chú và công năng









I. MỞ ĐẦU














Công năng:

1. Thanh Tịnh



Chân ngôn:

OM RAM




Công năng:

2. Tịnh Tam Nghiệp




Chân ngôn

OM KAYA VAK CITTA VAJRA SARVATRA KOHAM























Công năng:

3. An Thiên Địa




Chân ngôn:

NAMA SAMANTA BUDHANAM OM SRTHVIYE SWAHA





















II. CĂN BẢN






















Công năng:

4. Phụng Thỉnh Tức

Bổn Tôn liền đến




Chân ngôn:

OM TARE TUTTARE SWAHA



























III. CÚNG DƯỜNG














Công năng:

5. Hoa Đàn Ấn Chú




Chân ngôn:

OM TAYATHA AJASA BAJADAN ALEYA PALOKITE NHIEP BARAYA RAYANA DATRA SARDENA SWAHA






























Công năng:

6. Hương Hoa Ấn Chú




Chân ngôn:

OM SARVA BATRA BOSAR BHAJAYA SWAHA





























Công năng:

7. Hương Thủy Ấn Chú




Chân ngôn:

OM SARVA ODACAYA RATNASA SWAHA
































http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/an-chu-va-cong-nang.html






Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Giữ giới như thế nào cho đúng?






G i ớ i . . .
" T h i ê n Đ ư ờ n g r ộ n g m ở k h ô n g a i đ ế n .
Đ ị a N g ụ c v ô m ô n l ạ i t ì m v à o " .


Em xin kính chào toàn thể quý độc giả!

Tính đến nay, nhóm CTR đã viết khoảng hơn 100 bài. Rất may mắn là CTR đã được nhiều độc giả trong và ngoài nước ghé thăm. Quả thực là trong số những bài viết, CTR vẫn chưa có một chuyên đề nói về vấn đề giữ Giới trong Thiền Định, trong khi chính CTR thường sử dụng công thức bất tử:

* g i ớ i * đ ị n h * h u ệ *

Đó là một thiếu sót. Xin chân thành cảm ơn quý độc giả Tào lao xịt bụp đã đề cập vấn đề này.
Sau đây là toàn văn của quý độc giả.

Tào lao xịt bụp: @ Thiền Định thực hành: bài 1

Kính chào!
TLXB đã rõ các bước chuẩn bị cơ bản trước khi vào Thiền rồi. Việc "tình dục" cũng đã được nói rõ, nhưng còn cái việc "ăn uống" và "ăn nói" thì không thấy đề cập tới. Cái vụ này theo TLXB thì cũng cực kỳ quan trọng không kém chuyện tình dục đâu. Ở một bài viết nào đó của CTR, TLXB nhớ mang máng đại ý là: phải có một đời sống trong sạch như thế nào đó thì mới tương ứng với cảnh giới Thiền nào đó. Theo cái hiểu của TLXB thì muốn tiến tu thì phải giữ Giới, chứ không thể tuỳ tiện ăn uống (ý là ăn mặn), ăn nói xạo sự sao cũng được, không biết hiểu như thế có trật đường rầy không. Rất mong TTT bổ sung thêm vào giáo trình cái mục "ăn uống" và "ăn nói".

Tam Tiểu Thư: Kính thưa quý độc giả!

Trước khi giải thích về Giới, chúng ta hãy so sánh sự khác biệt giữa cảnh Dục Giới của con Người và cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc.

Căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp:

S ắ c ( R u p a )

Sắc của cảnh Dục Giới có khoảng trên dưới 30 yếu tố, còn sắc của cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc thì dưới con số này. Sắc có nghĩa là vật chất. Vật chất ở thế giới con người thì có khối lượng, trọng lượng, gồm 4 dạng: Đặc, lỏng, hơi, plasma. Vật chất ở cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc, mặc dù nhìn thấy nhưng lại không có những yếu tố này. Em xin kể ra một bản sơ lược sau đây để phân biệt, sự khác biệt về vật chất ở Cảnh Giới con Người và cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc.

1. Vật chất ở thế giới Hữu Sắc có dưới 30 yếu tố:
2. Có hình thể nhưng không có bức xạ điện từ.
3. Không có khối lượng.
4. Không có trọng lượng.
5. Ở ngoài 4 thể trạng là: đặc, lỏng, hơi, plasma
6. Không có bức xạ nhiệt
7. Không bị định luật tương tác hấp dẫn chi phối
8. Không lệ thuộc ở không gian 3 chiều
9. Mạng căn: Có nghĩa là việc nuôi dưỡng hình ảnh đó, không lệ thuộc ở thức ăn, môi trường sinh hoạt. Theo trường phái Mật Tông Tây Tạng, thì từ sơ thiền hữu sắc, đã không sử dụng thực phẩm như con người ở cảnh dục giới, khái niệm thực phẩm mất hoàn toàn khi ở cảnh thiền định cao hơn.

10. Bản Tánh Sắc: là tính chất nam, nữ, tính chất âm dương, ở đây không hiện hữu. Một thực tế mà chúng ta phải quan tâm tới, trong lúc Nhập Định của một người bình thường, thì hiện tượng này chúng ta có thể tự quan sát. Nhưng một khi bước ra khỏi cơn Định, thì chúng ta ít nhiều chúng ta chỉ là một con người bình thường. Không biết có phải tại lý do này không, mà trường phái Phật giáo nguyên thủy, đã mô tả về một trạng thái tương đối khi còn đang sống, khi còn thân xác vật lý, gọi là Hữu Dư. Khi bỏ xác vật lý là chết, thì trạng thái nói trên mới là tuyệt đối. Còn rất nhiều chi tiết khác ...

____ T â m

Chúng ta có thể hiểu là cấu tạo tinh thần, cấu tạo tâm lý. Ở Cảnh Giới này, Sơ Thiền Hữu Sắc, cả Tâm Vương lẫn Tâm Sở, có nghĩa là Tâm chánh và Tâm phụ, có chừng trên dưới 40 Tâm. Trong khi ở Cảnh Dục Giới của con người, có tới mấy trăm Tâm.

Những điều nổi bật mà chúng ta nên quan tâm về vấn đề cấu tạo Tâm. Vì có:
* Tâm Tầm là đi tìm đối nghịch của Tâm Sân tức cáu giận, vì có:
* Tâm đứng im là Nhất Tâm, do đó không thể có Tâm Si là mê muội, trạo cử, phóng tâm là nghĩ lung tung.

Kính thưa quý độc giả!

Nếu quý độc giả xem kỹ phần trình bày này, thì câu trả lời cho quý độc giả Tào Lao Xịt Bụp hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Nếu chúng ta Định đến Cảnh Giới Sơ Thiền Hữu Sắc, thì chúng ta không thể thích đánh nhau, thích ăn con vật này, con vật kia, vì nó ngược lại với Tâm Tầm. Chúng ta không thể say xỉn, vì nó đồng hành với Tâm Si, Trạo Cử, ngược lại với Nhất Tâm. Nếu ta thích tìm thấy khoái lạc ở quan hệ nam nữ, thì nó ngược lại với Hỉ, Lạc, là hệ quả do Nhất Tâm sanh ra.

Em thiết nghĩ một khi hiểu rõ vấn đề, nếu có ý định Tu Quán để hiểu được sự thật của thế giới tự nhiên khách quan, nhất là mình tự chứng nghiệm, thì chúng ta dù muốn hay không muốn, cũng phải có một lối sống phù hợp với Cảnh Giới mà mình có ý định đi tới. Giới không phải là một sự bắt buộc. Đúng ra nó là quyền lợi của chính mình nếu chúng ta có ý định tiến lên trên nấc thang tiến hóa. Mỗi một Cảnh Giới có một lối sống, một phong tục, lề lối, truyền thống, thói quen của riêng mình. Chính những điều vừa nói trên là bản chất của Giới. Nói một cách khác, Giới thật sự chỉ là lề lối sinh hoạt ở một Cảnh Giới nào đó.

Tuy nhiên chúng ta nên cân nhắc lại. Mỗi một cá thể có một quan niệm hạnh phúc khác nhau. Biết đâu lại có ai đó cho là cuộc sống thế gian cũng có nhiều thứ để vui chơi, say xỉn, và người ta thích ở cảnh Dục Giới con người thì sao?! Chắc chúng ta còn nhớ có một câu nói:

"Thiên Đường rộng mở không ai đến. Địa Ngục vô môn lại tìm vào".

Xin cảm ơn quý độc giả đã nhiệt tình đóng góp cho trang blog.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/tro-chuyen-cung-oc-gia-gioi.html

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Thiền định thực hành: bài 4

c h u y ệ n g ì s ẽ x ả y r a . . .
s a u k h i đ ị n h t â m ?


Kính thưa quý độc giả, dù quý độc giả tu theo bất cứ trường phái nào và ít nhiều đã tập luyện kỹ thuật Định Tâm làm cho Tâm đứng im, đều biết là việc này rất khó đạt được.

Giả định rằng quý vị đã chủ động tạo được trạng thái tâm đứng im, còn gọi là Định hay Chỉ, thì việc gì sẽ xảy ra?

Ngày hôm nay, với phương tiện truyền thông đại chúng, ai cũng biết hiện tượng cận tử (Near-Death Experience, NDE). Đây là một hiện tượng gây nhiều tranh cãi. Hầu hết các chuyên gia trong y giới thì cho hiện tượng này chỉ là hệ quả của việc não thiếu oxygen.

Thế nhưng có nhiều trường hợp không thể giải thích thỏa đáng bằng giả thuyết trên. Trong tài liệu được dịch tiếng việt là "Trở Về Từ Cõi Sáng", có một nữ bệnh nhân được mô tả là ở trạng thái cận tử, và cô thấy cái gì đó (tạm gọi là cái hồn), đi ra khỏi cơ thể vật lý. Cái hồn này thấy vị bác sĩ bỏ quên chiếc chìa khóa xe trên nóc tủ, thấy một người khác đang xem chương trình ti vi ở một phòng khác, trở về nhà thì thấy chồng, thấy con … Sau khi cô sống lại, kiểm chứng những việc nói trên, người ta xác định là có thật. Một trường hợp khác là một khoa học gia người Nga. Ông ở trạng thái chết khá lâu, sau khi tỉnh dậy ông kể lại trạng thái cận tử. Ông được đào tạo theo hệ thống chủ nghĩa xã hội Liên Xô, tất nhiên là chỉ tin chủ nghĩa duy vật. Sau khi sống lại, ông bỏ nghề làm khoa học và trở thành thầy tu. Tất cả những thông tin trên quý vị có thể xem trên internet.

Người tu Thiền Định khi mới Định Tâm, nhất là những lần đầu tiên, đa phần đều thấy hiện tượng giống như người Cận Tử. Họ thấy một đường hầm, nửa tối, nửa sáng, gặp các Vong Linh, có thể là thân nhân, có thể là người xa lạ, người đi tới, người đi lui, có khi họ giao tiếp với những Vong Linh này. Nhưng nói chung, các Vong Linh này cũng như bản thân họ đều mang tâm trạng phân vân không biết đi về đâu. Một số người khác còn tả là ở cuối đường hầm có ánh sáng rực rỡ, họ có tác ý là muốn đi về phía này.

Mô hình nêu trên có thể coi là một mô hình mẫu nhiều người đã gặp.

Tuy vậy nhưng không phải tất cả người Nhập Định đều có mô hình giống nhau.

Sau đây CTR xin đưa ra một mô hình khác do một người tu Thiền Định kể lại và không trùng lặp với mô hình kể trên. Người này cũng thực hành tu Thiền Định, tự tập chứ không có một kỹ thuật nào cả. Sự thật cũng chẳng có một kỹ thuật nào đáng gọi là kỹ thuật khi mà những tài liệu dạy tu Thiền Định chỉ vỏn vẹn trong vài trang giấy.

Người này sống ở một thành phố lớn. Có một ngày nọ bỗng nhiên thấy mình thoát ra khỏi thân xác vật lý. Khi nhìn trên mặt bàn ở trong phòng, vị này thấy có nhiều vật dụng, nhưng đặc biệt lại nhìn thấy nhiều góc cạnh một lúc. Lúc đó vị này tự nghĩ nếu nhìn được nhiều góc cạnh như vậy thì không gian không phải chỉ là ba chiều hoặc bốn chiều … Bao nhiêu chiều thì chẳng biết nữa! Bỗng nhiên vị này thấy mình đến một nơi, nhưng do thiếu kinh nghiệm, nên không hiểu rằng đó là núi Tu Di đã được người ta mô tả! Việc di chuyển đến địa điểm này, dường như bằng vận tốc của tư tưởng. Khi nhớ lại lời dạy ở trong trường học là, vận tốc ánh sáng là vận tốc tuyệt đối, thì rõ ràng trong trường hợp này cần phải nghĩ lại. Bản thân người này, dường như lưng chừng ở giữa một quả núi vĩ đại, mà cái thân của mình là cái gì thì lại không biết, chỉ biết một điều là mình vẫn còn hiện hữu, tồn tại. Trong lúc tạm gọi bay trong không khí, đến một mặt phẳng vô danh, vị này thấy những người cao lớn, mặc áo choàng màu xám. Hình như họ đang làm cái gì đó trên một cái bàn bằng đá thì phải. Trong lúc tò mò quan sát, thì một trong số những người ở xung quanh cái bàn giơ tay lên, và vị này cảm thấy mình bị đau lưng. Sau đó cái gì quay về cơ thể vật lý thì chẳng biết, và vị này bị đau lưng từ giai đoạn đó.

Những kinh nghiệm kể trên có thể đưa chúng ta đến một nhận xét, là cho dù có Định Tâm được nhưng nếu chúng ta không được học tập về vấn đề này từ trước, thì công việc trở nên rất khó khăn. Đợi đến khi có được kinh nghiệm bản thân, thì ít nhiều cũng đã phạm phải những sai lầm mà đáng lẽ không nên có.

Vấn đề này tùy theo trường phái quan niệm về cái Tôi và quan niệm về Thế Giới Khách Quan.

* * * * * * * * * * * *

CTR xin đan cử một trường phái từng nổi tiếng một thời gian trong thời cận đại, đó là trường phái Thông Thiên Học. Đặc điểm của trường phái này như mọi người đều biết, người đứng đầu, và những vị kế tiếp toàn là những trí thức thượng thặng. Họ là những bác sĩ, luật sư … Tất nhiên trường phái này cũng có một chủ thuyết.

Theo Thông Thiên học, con người được mô tả là sự kết hợp của 3 hạt nguyên tử cơ bản:

1. Hạt nguyên tử của Xác thân (corps physique).
2. Hạt nguyên tử Thể Vía (corps astral).
3. Hạt nguyên tử Thể Trí (corps mental).

Ba hạt nguyên tử nói trên, có thể so sánh như 3 thẻ nhớ, với số lượng vô hạn. Trường phái này gọi 3 hạt nguyên tử nói trên là Văn khố vô thủy, vô chung (archives Akasiques).

Vẫn theo trường phái này, thì có 7 Cảnh Giới lớn, mỗi Cảnh Giới lớn này lại chia ra 7 Cảnh Giới nhỏ:

1. Cõi Tối Thượng Niết Bàn (Plan Paramahanirvanique).
2. Cõi Thượng Niết Bàn (Plan paranirvanique).
3. Cõi Niết Bàn (Plan Nirvanique).
4. Cõi Bồ Đề (Plan Boudhique).
5. Cõi Thượng Thiên (Plan Mental Superieur).
Cảnh Thiên Đàng hay là Cực Lạc Quốc (Plan Mental Inferieur)
Cõi Hạ Thiên.
6. Cõi Trung Giới (Plan Astral).
7. Cảnh này ở trong lòng trái đất, nhiều Tôn Giáo gọi là Địa Ngục.

Cảnh Trung Giới cách trái đất 400.000 cây số, cảnh Thượng Giới cách trái đất là 385.000 cây số. Với những con số nói về khoảng cách với trái đất, thì chúng ta có cảm tưởng là sự hiểu biết về vũ trụ và vật chất của nhân loại vào lúc bấy giờ có lẽ khá khiêm tốn. Thật vậy, với hiểu biết ngày hôm nay, thì cả kể cả đơn vị đo bằng vận tốc ánh sáng, hình như cũng chưa đủ sức để mô tả những khoảng cách trong vũ trụ.

Vẫn theo trường phái này, thì nhân loại chia ra rất nhiều đẳng cấp. Nhiều người cho đây là một khái niệm, ít nhiều mang tính chất phân biệt chủng tộc.

* * * * * * * * * * * *

Mục đích mà CTR phải đan cử thử một trường phái nói trên, là muốn giúp quý độc giả nhận ra một điều sau đây: Khi chúng ta thực sự Định Tâm, chúng ta sẽ đứng trước những hiện tượng, những định luật của thế giới Khách Quan Tự Nhiên. Nếu một lý thuyết, một chủ thuyết của một trường phái nào đó, mà không phù hợp, không tương thích thì chúng ta tự biến mình thành những nạn nhân. Nói một cách khác, người thiệt hại chính là mình.

Sau đây, CTR xin trình bày quan điểm của trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy về vấn đề này. Chủ thuyết nào đúng, chủ thuyết nào sai, thì thực tế mới là cái thước đo chính xác nhất. Nếu quý vị độc giả khi mang điều này ra ứng dụng trên thực tế, cụ thể là ứng dụng trong lúc Định Tâm, thì sẽ phân biệt được hàng giả hay hàng thiệt.

Việc đầu tiên là chúng ta xét về cấu tạo Tâm của bản thân mình và khả năng sử dụng những kỹ thuật để sửa sang cấu tạo Tâm của bản thân mình. Điều kế tiếp mà chúng ta phải quan tâm, đó là cấu tạo Sắc của bản thân mình, khả năng sử dụng kỹ thuật nào đó để sửa sang cấu tạo Sắc, nâng cấp cấu tạo Sắc theo ý mình mong muốn. Chúng ta còn cần đến những hiểu biết về Cảnh Giới, về những định luật Khách Quan của thế giới tự nhiên. Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố không thể kể hết.

Có bao nhiêu mô hình tạo ra trạng thái Định Tâm?

Nhiều vô số kể. Định Tâm có thể do chủ động, có thể do thụ động.

Người ta Định Tâm thụ động, vì do một kích thích vào giác quan của chúng ta quá lớn, vượt quá sức chịu đựng của một giác quan. Thí dụ như một tiếng nổ quá lớn, một cảnh quá hãi hùng, làm cho chúng ta mất đi ý thức. Thôi miên tạo ra trạng thái mất đi ý thức, các loại chất say cũng có thể tạo ra trạng thái mất đi ý thức, Tâm đứng im một cách thụ động.

Chủ động Định Tâm được tạo ra bởi Thiền Định. Theo quan điểm của Vi Diệu Pháp, dạng Định Tâm này là hệ quả của chú Tâm "Tầm", liên tục "Tứ", đưa đến Tâm đứng im "Nhất Tâm".

Với kỹ thuật này, quý độc giả sẽ thấy, các yếu tố của cả cấu tạo tâm lẫn cấu tạo sắc, sẽ được giảm đi một cách đầy kịch tính.

c ấ u t ạ o T Â M . . .

* Tầm và Tứ là Tâm đi tìm và duy trì, làm triệt tiêu hai Bất Thiện Tâm là Sân Hận, Tham Dục. Chúng ta nhận thấy ngay là, hai Thiền Thiện Tâm thay thế vào chỗ của hai Bất Thiện Tâm thuộc Cảnh Dục Giới. Đây là một kỹ thuật thông minh. Khi:

* Nhất Tâm xuất hiện, triệt tiêu hai Bất Thiện Tâm là Hôn Trầm và Phóng Tâm (Hôn Trầm được coi như là hệ quả của Bất Thiện Tâm "Si", "Si" được coi như là một loại Tâm mê mờ, Trạo Cử …). Khi các Tâm:

* Hỉ, Lạc xuất hiện, thì Hoài Nghi không còn hiện hữu.

Chỉ mới ở phần này thôi, chúng ta đã thấy, kỹ thuật nói trên có thể mô tả như là một tên bắn hai chim, vừa có được những Thiện Tâm, lại làm mất đi những Bất Thiện Tâm. Bất Thiện Tâm là những Tâm xa vời mục đích Giải Thoát. Ai cũng biết Tâm Hoài Nghi là Phiền Não đứng hạng hai trong 10 Phiền Não lớn nhất của con người.

y ế u t ố S Ắ C . . .

Yếu tố Sắc cũng thay đổi một cách rõ rệt. Cảm giác khinh an, đó là một cảm giác rất dễ nhận biết trong khi Nhập Định. Cảm giác này nói lên tình trạng Sắc (vật chất) mất đi yếu tố khối lượng (mass) và trọng lượng. Nói một cách khác, lực tương tác hấp dẫn, ít nhiều đã bị triệt tiêu. Đoàn Thực là nhu cầu ăn, mạng căn là nuôi dưỡng thân thể, cũng đã thay đổi. Khái niệm về ăn uống mất dần từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền Hữu Sắc. Ở Cảnh Giới này có lẽ niềm vui là thực phẩm. Yếu tố Bản Tánh Sắc (là khái niệm về nam, nữ) bị mất đi khi người ta Nhập Định.

Nếu người tu Thiền Định có kỹ thuật tốt, có lý thuyết tốt ở bất cứ ở trường phái nào, thì có rất nhiều hy vọng đến được những Cảnh Giới mang nhiều yếu tố tích cực hơn Cảnh Giới của loài Người. Điều này rất mong quý độc giả quan tâm, suy nghĩ.

Theo quan điểm của trường phái Phật Giáo, thì còn phải tính đến yếu tố Nghiệp Lực. Và cái Tôi là chủ nhân ông của tài sản các loại Nghiệp Lực, được tạo ra kiếp này, kiếp trước và vô lượng kiếp trước nữa.

Còn rất nhiều yếu tố khác nữa mà CTR không thể kể hết trong phạm vi bài viết này. Hy vọng rằng phần trình bày ở trên, ít nhiều cũng nói lên được những yếu tố tích cực, chủ quan, đóng góp cho việc chúng ta sẽ đi về đâu trong lúc Định Tâm.

Tất nhiên ai cũng mong muốn đến một Cảnh Giới tốt hơn, nhưng chúng ta phải tự hiểu, ví von một cách bình dân là chúng ta có đủ tiền để mua một món đồ mà chúng ta mong muốn hay không. Ai cũng biết chúng ta không thể mua một món đồ đắt hơn số tiền mình có. Chúng ta không thể đến một cảnh giới cao hơn theo ý thích của mình, vì lực bất tòng tâm.

Để không bối rối khi cơ may Định Tâm đã đến, chúng ta phải có sự chuẩn bị đầy đủ về tâm tư, vốn liếng, kỹ thuật … để thực hiện mục đích mình mong muốn.

Khái niệm Cảnh Giới là một khái niệm không có trong văn hóa của người Âu Mỹ. Tương tự như vậy, khái niệm về Tâm và Sắc, hoàn toàn nằm ngoài nền văn hóa của người Âu Mỹ. Do đó, chúng ta là những người hấp thụ nền văn hóa Âu Mỹ, khi tiếp cận vấn đề này, bắt buộc chúng ta phải xây dựng từ viên đá đầu tiên. Thế rồi qua chiều dài của những ngày công phu Thiền Định, chúng ta hình như phát hiện ra rằng, ngoài chân trời này lại còn có chân trời khác. Dù sao chúng ta cũng may mắn, vì tương lai vẫn chờ đón chúng ta.

Để có thể giải quyết vấn đề chúng ta sẽ đi đâu và làm gì trong lúc Định Tâm, CTR sẽ đề cập tới vấn đề Cảnh Giới trong bài viết tiếp theo.

Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phản hồi từ quý độc giả.


http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thuc-hanh-thien-inh-4.html

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

Trao đổi cùng quý độc giả về Mandala


Địa Điểm: Tại một tiệm cà phê tại thành phố Sài Gòn.

- Tam Tiểu Thư:

Em xin kính chào toàn thể quý độc giả hiện đang có mặt nơi đây, em cũng xin gởi lời kính chào đến tất cả quý vị khán giả ở nhiều nước trên khắp thế giới, Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Đài Loan, Việt Nam … Xin thay mặt cho tiêu cục Xuyên Vân Kiếm Pháp, cám ơn quý độc giả đã quan tâm ghé qua thăm trang blog của CTR. Tuy được rất ít quý vị phản hồi, nhưng cũng có rất nhiều quý độc giả đóng góp một cách nhiệt tình trung thực, trong tinh thần xây dựng để trang blog hiệu quả hơn, dễ hiểu hơn; cụ thể là:

* Cần phải trình bày bài viết dễ hiểu hơn nữa, tránh sử dụng những từ ngữ chuyên ngành, nếu sử dụng từ ngữ chuyên ngành, thì phải giải thích cặn kẽ, rõ ràng. Tránh sử dụng từ ngữ bằng tiếng nước ngoài, nếu có sử dụng thì phải dịch ra tiếng Việt Nam, kèm theo giải thích để cho dễ hiểu.

* Nhưng cũng có nhiều quý độc giả ở nước ngoài, lại có yêu cầu là những từ ngữ chuyên ngành cần phải viết bằng tiếng nước ngoài, để cho những người không rành tiếng Việt Nam lắm, có thể hiểu được. Sử dụng những ngôn ngữ phổ thông như: Anh, Pháp, Đức …

Qua hai bài trình bày về hai trường phái hoàn toàn khác biệt nhau, để đưa đến định tâm, thì những phản hồi ít nhiều cũng làm cho em khá bất ngờ. Đối với đại đa số quý độc giả cả hai trường phái này dường như là xa lạ, và nhiều người khác thì chưa từng biết đến bao giờ.

Chẳng riêng gì tu tập Thiền Định, mà tất cả những loại tập luyện nào liên quan đến tinh thần, thì đều cần đến tập trung tư tưởng. Điển hình như những trường phái võ thuật, ngoài việc tập luyện quyền cước, giao đấu, đối kháng, công phá … song song đó đều phải tập luyện tĩnh tọa, ngồi yên lặng tập trung tư tưởng … Bình dân mà nói, nếu quyền cước là động, thì ngồi tĩnh tọa là tĩnh … Người tập Thôi Miên cũng không loại trừ việc tập trung tư tưởng.

Trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy và trường phái Mật Tông Tây Tạng, tuy khác nhau sâu sắc từ hình thức đến nội dung, nhưng lại có một thứ lại hoàn toàn giống nhau, đó là việc triển khai công thức bất tử:

"Chánh Định là tư cách Chú Tâm vào vật duy nhất"

CTR trình bày hai trường phái nói trên chỉ với mục đích duy nhất là cung ứng những sản phẩm vừa với ý thích của nhiều quý độc giả khác nhau.

Những độc giả xa lạ với hai trường phái này có thể là những vị đã bỏ rất nhiều thời gian vào một việc tập luyện một dạng Thiền Định nào đó. Và những dạng Thiền Định này có lẽ có khoảng cách với những trường phái tập luyện tập trung tư tưởng một cách chính quy.

Kính thưa quý độc giả,

Bộ môn dạy Thiền Định, tập trung tư tưởng như quý độc giả vừa biết, theo chiều dài của lịch sử thì là tài sản chung của nhân loại. Nó hoàn toàn không phải là đặc sản riêng tư gì của trường phái Phật Giáo.

Sau đây em xin nêu ra ý kiến của một số quý vị độc giả:

- NQD: @ Thiền định thực hành: bài 2

Cảm ơn nhóm CTR nhiều lắm, rất háo hức chờ đợi những bài viết tiếp theo của nhóm, chúc mọi người trong blog mạnh khỏe và tu tập tinh tấn.

- Tam Tiểu Thư:

Em xin trân trọng cám ơn quý độc NQD đã động viên tinh thần em. Tuy nhiên, khi quan sát số độc giả ghé qua trang blog của CTR gần đây, thì em nhận thấy số lượng quý độc giả có phần giảm sút rõ rệt. Theo suy nghĩ chủ quan của em, thì có lẽ những bài viết của CTR về vấn đề Thiền Định, đã không đáp ứng được yêu cầu của quý độc giả. Tôn chỉ của CTR là "Viết những điều quý độc giả cần, chứ không phải viết những điều mình muốn viết". CTR sẽ cố gắng để hoàn thiện hơn trong tương lai.

- Tam Nhu: @ Thiền định thực hành: bài 2

Xin chào tất cả!
Xin cho hỏi với tư thế nằm mà tay cầm chày và bắt ấn khi công phu, đến sáng tay vẫn còn cầm chày và bắt ấn, vậy tư thế này có thể áp dụng khi công phu không? Xin TTT chỉ bảo thêm và cho ý kiến, cám ơn TTT nhiều!
p/s: khi đến sáng tay cầm chày phải nói là cứng đơ, đôi khi bị tê.

- Tam Nhu: @ Thiền định thực hành: bài 2

Bổ sung
ý em muốn hỏi có cách nào để mình phân biệt là đang nằm thiền hay đang ngủ?

- Tam Tiểu Thư:

Thưa chị Tâm Như!

Chắc chị còn nhớ trong một bài viết về thực hành, em có đề cập tới vị thế Thiền Định. Mục đích chánh của chúng ta là tu Thiền Định, và bước đầu quan trọng nhất là làm sao Định Tâm thành công. Gần đây CTR đã giới thiệu hai phương cách, một là của Phật Giáo Nguyên Thủy, phương cách khác là của Mật Tông Tây Tạng. Xin thưa lại cùng chị, vị thế nào mà đưa lại thư giãn, buông thả, dễ chịu nhất, là vị thế tốt nhất cho mình tu Thiền Định. Và ngược lại, vị thế nào, mà tạo cho cơ thể không được thoải mái, không buông thả, mà còn cứng đơ, đôi khi bị tê … thì có lẽ không phải là một vị thế tốt.

Việc phân biệt giữa ngủ mê và Thiền, kể ra cũng khá dễ dàng. Khi Nhập Định thực sự, thì tâm trí hoàn toàn sáng suốt, tinh thần vật chất nhẹ nhàng, hạnh phúc, mọi việc đều ở trong tầm ý thức, các Phiền Não tạm thời không còn hiện hữu. Ngủ mê thì hoàn toàn ngược lại, trong lúc mê mình mất hoàn toàn ý thức, thậm chí lúc tỉnh dậy cảm thấy mệt mỏi.

Em hy vọng được gặp lại chị trong những bài viết khác.

Say đây em xin giới thiệu quý độc giả Tu Phong Son:

- Tu Phong Son: @ Thiền định thực hành: bài 3

Kính Tam Tiểu Thư,




Trước chúc mừng cô vừa mới Make up về, có cái photo thật xinh.
Chính, nói về Mandala. Theo bài trước thì đối tượng quán là Vô nhân còn Lục Độ Mẫu thì là người nữ. Vậy có mâu thuẫn gì không.
Nếu tiểu sinh thay mandala này thành một biểu tượng khác dể hơn như là vẽ ra một hình Bát quái (như cái mạng Nhện) thì được không ạ.
Ngoài ra, tiểu sinh thấy trên mạng có nơi họ thiền định dùng nhịp song âm (Binaural beats) để hạ sóng não về theta (4-7hz). Điều này có sai theo Vi diệu pháp không ạ?

- Tam Tiểu Thư:

Kính chào quý độc giả Tu Phong Son!

Em xin chân thành cảm ơn những lời khen ngợi của quý độc giả. Là phụ nữ thì ai cũng muốn make up để mình trở nên đẹp hơn, duyên dáng hơn. Thật ra thì chẳng kể là phụ nữ hay nam giới, ai cũng muốn đẹp trai, đẹp gái. Thời buổi @ này thì ngoại hình có vai trò rất lớn trong giao tiếp và kinh doanh. Riêng với Tam Tiểu Thư thì do bị "nhiễm" tư tưởng Phật Giáo hơi nhiều, nên biết Sắc Tướng là thể hiện của Nghiệp. Tâm tạo ra Nghiệp, và Nghiệp tạo ra Sắc Tướng. Do đó, khi Sắc Tướng thay đổi (kể cả là nhờ make up thành công), em hy vọng nghiệp lực tiêu cực cũng giảm đi phần nào, và nhờ vậy có nhiều cơ hội để đảm đương công việc đã được phân công, là phục vụ quý độc giả.

Đúng như những gì quý độc giả nhận xét, hai trường phái này xét ở bất cứ góc cạnh nào cũng hoàn toàn mâu thuẫn. Và cũng đúng như quý độc giả quý độc Hoa Đồng Nội có đưa ra nhận xét, kỹ thuật của Mandala Lục Độ Mẫu chỉ nhằm một mục đích duy nhất là tạo ra trạng thái Định Tâm, cho quý độc giả nào hữu duyên với công cụ tu Thiền Định này.

Những điều quý độc giả thắc mắc là hoàn toàn chính xác. Sở dĩ CTR chưa trình bày về vấn đề này vì có rất nhiều lý do. Trước nhất, bài viết về Mandala Lục Độ Mẫu vẫn chưa hoàn tất, quý độc giả cũng chưa tập luyện với thời gian đủ dài. Nếu bây giờ đưa ra quá nhiều thông tin thì tất nhiên phải có những thông tin tích cực lẫn những thông tin tiêu cực, về cả mặt hữu vi lẫn vô vi.

Em lấy một thí dụ về việc tập luyện Mandala Lục Độ Mẫu.








- Khía cạnh tích cực là nếu tập thành công thì Tâm sẽ đứng im, mà thời gian Định Tâm kéo dài rất lâu. Đây là việc mà CTR mong muốn mang lại cho quý độc giả.

Trên thực tế thì từ xưa đến nay, nhân loại sử dụng trăm phương nghìn kế, nhưng dường như khó có cách nào để đưa đến việc định tâm cho người tập luyện. Ít nhất ở lãnh vực này, Mandala do những người Tây Tạng chế tác, thực sự là một phát minh quan trọng, một dấu mốc đáng ghi nhớ. Chính Mandala đã nâng công thức "Chánh định là tư cách chú tâm vào vật duy nhất" lên một tầm cao mới (vấn đề là sáng tác ra những mô hình khác, em sẽ đề cập đến sau).

Quả đúng như vậy, với kỹ thuật này đã có học giả nhận xét rằng những tu sĩ Tây Tạng mặc dù không phải là người có tư chất thông minh, nhưng họ đã tập rất thành công!

Chúng ta có thể tự hỏi là đàn pháp Tây Tạng có cái gì là cao siêu, huyền bí chăng? Theo thiển ý của em thì Mandala có nhiều vấn đề mà chúng ta cần quan tâm tới:

*** 1 Mandala triển khai thành công công thức bất tử:
"Chánh Định là tư cách Chú Tâm vào vật duy nhất"

*** 2 Mandala gồm có tiến trình của nhiều màn kịch trong một vở kịch. Điều này đã tạo ra một áp lực rất lớn lao cho bất cứ ai, chứ không riêng các tu sĩ Tây Tạng.

*** 3 Mandala là Đối Tượng dùng để Quán Tưởng trong khi Thiền Định (Theo những tài liệu chính quy). Nó không phải như một số người tập Mật Tông Tây Tạng ở Việt Nam đã hiểu lầm, là triển khai Mandala này bằng Ấn Chú, thiết lập Đàn Pháp Hữu Vi. Thêm vào đó họ còn truyền bá loại Chân Ngôn này, Ấn Chú kia, Mandala nọ … có công năng là chữa bệnh, trừ tà, tác pháp, thay đổi khí hậu các trận bão … Điều này em đã được mục kích tận mắt trên thực tế!

Em xin nhắc lại, Mandala Tây Tạng chỉ là một công cụ để tu Thiền Định.

- Khía cạnh tiêu cực: Hiện tượng mà em sắp trình bày sau đây có thể sẽ làm cho nhiều quý độc giả lúng túng. Thật ra thì nó sẽ là quá sớm khi trình bày điều này ở đây; nhưng do quý độc giả Tu Phong Son đặt ra, em buộc lòng phải nói ra. Mong rằng những điều trình bày này không làm cho quý độc giả đang tập luyện mang tâm trạng bối rối …

Đúng như quý độc giả Tu Phong Sơn nhận xét. Khi Cảnh Giới nào đó mà có tính chất bản tánh sắc (từ ngữ này mô tả là có nam, có nữ), thì theo quan điểm của trường phái Phật giáo, nó nằm trong cảnh dục giới. Kể cả cảnh thiên dục giới là do định mà có, nhưng cũng thuộc về dục giới. Do trình độ này (level) rất gần với cảnh giới người, cấu tạo tâm cũng tương tự nên làm cho người ta rất dễ nhập định. Ngoài vấn đề các thao tác kỹ thuật phức tạp, làm quá tải các giác quan của con người, thì đây có thể là một lý do nữa giúp người ta rất dễ định tâm khi quán tưởng Mandala. Một khi định tâm được, thì có một hệ quả trên thực tế là trong lúc tu thiền định, người tu loại thiền định này hay gặp các vong linh đến nhờ vả việc này, việc kia. Lý do như phần trên vừa nói, vì chúng ta rất gần gũi với những cảnh giới này, cấu tạo tâm tương tự nên các vong linh dễ giao tiếp với chúng ta.

Hiệu ứng này thật ra có hai mặt, chứ không thể nói là hoàn toàn tiêu cực. Dưới nhãn quan quá khích của trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy, họ cho rằng đó là sự thoái hóa. Thế nhưng quý vị thử suy nghĩ xem, lần đầu tiên trong đời, chúng ta giao tiếp được với những thực thể không phải là người (mà những việc đó có thể kiếm chứng thực tế về mức độ trung thực), thì cũng tạo cho chúng ta tâm lý, là cuộc sống này không phải chỉ có mình chúng ta, mà còn có những thực thể khác. Không những thế đây lại chính là kinh nghiệm bản thân của mình. Có thể nhờ kinh nghiệm này, mà những người dù có tâm lý duy vật nhất, cũng phải suy nghĩ lại. Kinh nghiệm này giúp chúng ta trở nên quyết tâm hơn trên con đường tu Thiền Định. Nếu suy nghĩ theo chiều hướng đó, thì chưa chắc các Mandala chỉ mang lại những hiệu ứng tiêu cực.

Còn một vấn đề khác xa hơn nữa mà có thể rất nhiều quý độc giả chưa thể thông cảm được, do quý vị chưa có một kinh nghiệm bản thân về nó. Người tập luyện một Đàn Pháp nào đó, tất nhiên có một vị gọi là chủ Chân Ngôn, có thể mang những tên tuổi mà nhiều quý vị biết đến, nhưng đồng thời quý vị cũng biết đó chỉ là những nhân vật hư cấu, cụ thể là không có thật!. Theo cách tập này, người tu Thiền Định cố gắng quan sát cho kỹ, cố nhớ từng chi tiết, với tất cả khả năng nhớ của mình, về một vị nào đó. Tốt hơn nữa là chúng ta có một cái tượng không gian ba chiều (chính vì lý do này, những người tu Mật giáo Tây Tạng có rất nhiều tượng cất trong tủ khi không dùng đến). Khi ngồi công phu nhắm mắt lại, chúng ta tạo ra một hình ảnh bằng tưởng tượng, hình dung hình ảnh đó … Việc này làm liên tục và cao độ, trong thời gian rất dài nhiều tháng nhiều năm … Thế rồi hình ảnh đó đến một ngày sẽ trở thành một thực thể giống như một cơ thể sống.

Có nhiều trường hợp có thể xảy ra. Một Thực Thể ở cõi nào đó mà không có cấu tạo Sắc, thì nay sử dụng cấu tạo Sắc này làm thân thể của mình. Đây là điều rắc rối nhất, khi hình ảnh này trở nên một Thực Thể sống động. Thực Thể này do chính chúng ta tạo ra, hay nói đúng hơn là do Tâm chúng ta tạo ra. Do đó, thực thể này ra sao là phụ thuộc ở cấu tạo Tâm của mình.

Công việc này có thể xảy ra cho bất cứ ai. Nó có thể do tình cờ hoặc do tập luyện chính quy các Mandala đạt được. Nói một cách cụ thể, nếu chúng ta là người nóng nảy thì Thực Thể đó sẽ nóng nảy … Nếu việc này có xảy ra thì đừng tránh ai, mà hãy trách chính mình.

Kính thưa quý độc giả Tu Phong Son,

Mandala có khắp trên thế giới, hiện diện ở rất nhiều tôn giáo khác nhau: Lão Tử, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo … Quý độc giả Tu Phong Son có thể tự làm ra một cái Mandala theo ý của mình. Mandala thường có hai ý nghĩa cơ bản: Vòng tròn và sự hoàn tất (circle, complet). Nó thường mang ý nghĩa là tiểu vũ trụ và đại vũ trụ (con người và vũ trụ), vũ trụ vĩ mô và vũ trụ vi mô.

Việc sử dụng tần số nào đó để hạ sóng não, thì rất phù hợp trên nguyên tắc lý thuyết vật lý. Nhưng trên nguyên tắc Thiền Định, thì người tu Thiền Định tránh sử dụng những biện pháp phụ trợ: Chất say, Thôi Miên … Họ thường tìm cách chủ động để làm chủ được tinh thần và vật chất. Tuy nhiên em thiết nghĩ, món ăn thì tùy khẩu vị.

Em xin cám ơn quý độc giả Tu Phong Son, em hy vọng sẽ được gặp quý độc giả trong những bài viết tới.

Em xin cám ơn quý độc giả Hoa Đồng Nội đã đóng góp rất nhiều bài viết có giá trị, điển hình như những bài viết nói về tác phẩm Vi Diệu Pháp. Để có được những bài viết này, quý độc giả đã phải mất nhiều giờ, nhiều ngày và có lẽ nhiều đêm để suy nghĩ.

Những bài viết gần đây của CTR ít nhiều đã sửa sang lại theo tinh thần đóng góp của quý độc giả Hoa Đồng Nội. CTR cố gắng viết bình dân hơn và tránh tối đa sử dụng những từ ngữ chuyên môn, tiếng nước ngoài. Cũng mong quý độc giả Hoa Đồng Nội thông cảm vì trang blog không phải chỉ dành cho người sống ở Việt Nam, mà còn có nhiều quý độc giả nước ngoài; thế nên việc chú thích bằng tiếng nước ngoài để tiện việc tham khảo cũng là điều hợp lý.

Cuối cùng xin đặc biệt cảm ơn những tình cảm Hoa Đồng Nội đã dành cho CTR. Những tình cảm này là động lực, là sự khích lệ về tinh thần quý báu giúp CTR có thêm năng lượng để hoàn thành những hoài bảo của mình.

Kính chúc quý độc giả tu Thiền Định tinh tấn.

Tam Tiểu Thư.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/trao-oi-cung-quy-oc-gia-ve-mandala.html

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Thiền định thực hành: bài 3


2
















m a n d a l a T â y T ạ n g
đ ỉ n h c a o c ủ a k ỹ t h u ậ t Đ ị n h T â m


Kính thưa quý độc giả!

Căn cứ trên thực tế thì cách sử dụng các Tâm Sở như một Đối Tượng để Quán Tưởng, là một kỹ thuật mang đầy màu sắc Vi Diệu Pháp, của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tuy nhiên, do Đối Tượng Quán Tưởng là tư tưởng, nên cách Quán Tưởng này rất trừu tượng và có thể rất khó cho hầu hết mọi người. Để có thể hấp thụ được tư tưởng của tài liệu Vi Diệu Pháp, chúng ta cần một thời gian rất lâu để có thể biến những cái gì mình đã đọc, thành ra kiến thức của chính bản thân mình. Vi Diệu Pháp giống như Lý Thuyết Tương Đối ở chỗ, kinh nghiệm cuộc sống đời thường không giúp gì được cho chúng ta trong việc hiểu được ý nghĩa của hai lý thuyết nói trên.

Nhập Định thành công luôn luôn là mong muốn của người tu Thiền Định. Với chút ít kinh nghiệm Nhập Định của bản thân, ngoài cách chọn các Tâm Sở như một Đối Tượng Quán Tưởng, CTR xin mạnh dạn đề xuất một Đối Tượng Quán Tưởng khác: đó là Đàn Pháp của Mật Giáo Tây Tạng.

Có thể nói đàn pháp là một phát kiến thông minh để triển khai phát biểu của trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy:

"Chánh Định là tư cách Chú Tâm vào vật duy nhất"

Những gì CTR sắp trình bày sau đây chỉ nhằm mang đến cho quý độc giả một phương cách thực tế, hữu hiệu để tạo ra trạng thái định tâm. Định Tâm chính là chiếc chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa, và rồi quý vị sẽ có cơ hội nếm trải những gì tuyệt vời, không có ngôn từ nào diễn tả được, nằm đằng sau cánh cửa đó.

Cách tập luyện này gồm hai phần:

Phần I: đề cập tới những thao tác kỹ thuật thuần túy, để quý vị thực hiện trên thực tế. Phần II: sẽ trình bày lý thuyết về vấn đề này để tránh ngộ nhận về vấn đề tư tưởng.

k ỹ t h u ậ t . . .

Trước nhất, CTR xin trình bày cách Quán Tưởng Mandala Lục Độ Mẫu (trong sách vở hay gọi là Green Tara).

Chúng ta tiến hành những thao tác như sau:

- Tìm chỗ ngồi nào đó vào thời gian thuận tiện.
- Kiểm tra lại vị thế ngồi hoặc nằm.
- Sau đó nhắm mắt lại, tưởng tượng là mình nhìn ra thế giới bên ngoài thông qua luân xa Ajna (còn gọi là huyệt Ấn Đường). Chúng ta phải tưởng tượng một cách cụ thể là ở tại luân xa Ajna có một cái cửa sổ tròn nhỏ; chúng ta ở phía trong nhìn ra ngoài qua cửa sổ đó.

Xin nhấn mạnh cùng quý vị là cách tưởng tượng này rất quan trọng. Có thể rất nhiều quý vị đã từng tập luyện lâu năm, nhưng do sử dụng sai Luân Xa, không biết cách tưởng tượng, thì không thể Định Tâm được. Trên lý thuyết thì ai cũng biết câu nói:

"Chánh Định là tư cách Chú Tâm vào vật duy nhất"

Nhưng việc Chú Tâm này thực hiện như thế nào? Chú Tâm bắt đầu từ đâu và vào điểm nào? Xin trả lời là nhìn ra, hình dung ra hình ảnh từ luân xa Ajna. Từ luân xa này chúng ta phải nhìn ra hình ảnh một cách rõ rệt. Quán Tưởng là chúng ta tưởng tượng ra hình ảnh đó, thí dụ như tưởng tượng nhìn thấy "bông sen" trong ánh sáng ban ngày.

Sau đây CTR lần lượt mô tả tiến trình để quán tưởng hay nhìn thấy Đàn Pháp Green Tara. Mong quý độc giả từ từ theo dõi từng phần như sau:

A. Mô tả về việc hiện thân của Green Tara (embody):

Trước nhất chúng ta tưởng tượng thấy một luồng ánh sáng trong không trung, từ trên trời đưa xuống. Ở đây xuất hiện một bông sen màu trắng, đồng thời xuất hiện một chân ngôn là chữ A. Chữ A này biến thành một vầng sáng như mặt trăng, bao phủ toàn thể bông sen.

Tiếp theo là một chân ngôn chữ "Đam" màu xanh lá cây. Chữ "Đam" này biến thành một bông sen màu xanh lá cây. Lục Độ Mẫu xuất hiện từ bông sen màu xanh lá cây.

Người tu Quán Tưởng, nhìn thấy, tưởng tượng, những diễn tiến kể trên như một cuốn phim càng rõ nét càng tốt và các diễn tiến xảy ra liên tục. Việc Quán Tưởng này làm cho chúng ta chìm sâu trong kịch bản khá phức tạp.

Vừa nhìn thấy kịch bản này trong trí tưởng tượng, song song thì nghe thấy Chân Ngôn kể sau (mong quý độc giả ghi nhớ):

B. "Om svabhawa shuddha sarva dharma svabhawa shuddho ham"

C. Chân Ngôn căn bản của Lục Độ Mẫu, mong quý độc giả phải thuộc lòng
"Om Tare Tuttare Ture Svaha".

Quý vị cứ đọc theo cách phát âm của người Việt Nam cho nó đơn giản.

Chân ngôn này có nghĩa gì?

Trên nguyên tắc, người ta cho Chân Ngôn là lời nói bí mật của chư Phật, không thể cắt nghĩa được. Tuy nhiên, như quý vị cũng biết, có một số Chân Ngôn quá phổ thông, thí dụ như: "Om Mani Padme Hum", người ta vẫn cho biết ý nghĩa từng chữ. Chân Ngôn vừa kể trên cũng rất phổ thông, do đó người ta cũng cắt nghĩa từng chữ, và ý nghĩa của nó như sau:

* Om: Đó là âm thanh tượng trưng toàn thể vũ trụ, tượng trưng của hiện tại, quá khứ, vị lai.
* Tare: Tượng trưng cho sự cứu rỗi, thoát khỏi khổ đau và nguy hiểm. Tara là Đấng cứu độ trong lụt lội, thú dữ, tai nạn giao thông.
* Tuttare: Tượng trưng cho sự Giải Thoát trên con đường tiến hóa tâm linh, hướng dẫn con người giải thoát khỏi khổ đau.
* Ture: Tượng trưng cao độ cho việc giải thoát tâm linh, đưa con người chúng ta thoát ra khỏi khái niệm chật hẹp về đời sống tâm linh.
* Svaha: Đó là lời cầu chúc.

D. Mô tả cơ bản về Lục Độ Mẫu Tara:

Thân thể có màu xanh lá cây, vì đó là vị Thần của rừng xanh (forest goddess). Có tài liệu ghi là trang phục quần áo màu xanh, làm bằng lá. Phát ra tiếng như chim hót, phát ra âm thanh như tiếng thác đổ, phát ra âm thanh thú dữ.

* Trang sức: đầu đội mũ hoa, tóc búi cao, tai đeo khuyên vàng, cổ đeo vòng đá quý.
* Y phục: như vừa tả ở trên.
* Tư thế Phật mẫu Tara: tay trái cầm bông hoa sen xanh, ở trên tầm ngực, tay phải cũng cầm một bông hoa sen xanh, uốn cong.



Qua 4 phần để Quán Tưởng, em thiết nghĩ cũng là một công việc khá nặng nề cho quý độc giả. Việc này có lẽ cũng đủ để làm cho một quý độc giả bình thường Định Tâm.

Cách tập này có thể làm cho quý độc giả định tâm được trong một thời gian tương đối dài.

Mandala (đàn pháp) chỉ là một công cụ để đưa quý độc giả đến định tâm. Trên nguyên tắc, chức năng của đàn pháp đến đây có thể coi như đã hoàn tất. Tuy nhiên, có thể do vô tình, hoặc cũng có thể do một số quý độc giả có trí tuệ hơn người, thì họ lại nâng đàn pháp lên một tầng cao mới, đó là quán.

Thật vậy, việc quán tưởng trong Mandala Tây Tạng, có thể dẫn tới hai con đường:

- Đưa đến những kiến thức xuất thế gian.

- Ngược lại nếu không biết sử dụng và có những tác ý mang nặng tính cách dục giới, thì nó sẽ đưa mình đến một ngã khác như trường hợp thực tế sau đây: Có một người tu theo Mật giáo Tây Tạng và hãnh diện kể rằng họ đã sử dụng chú Đại Tùy Cầu, chú vào một chai nước, sau đó dùng nước này để chữa bệnh cho chó và cả cho người nữa. Vẫn theo người này cho biết, chú Đại Tùy Cầu này (hình như có nguồn gốc từ thầy Minh Đức) rất linh nghiệm, chữa gì cũng khỏi.

Trên đây chỉ là một số tư tưởng căn bản của Mandala Tây Tạng. Những quan điểm dùng Mandala để chữa bệnh chó, bệnh người, để thư, phù, yếm, đối, tác pháp người mình không ưa là một quan điểm, quá mang tính thực dụng, hạ thấp giá trị của Mandala Tây Tạng.

Thực sự Mandala dùng để làm gì?

CTR xin được trích dẫn một số câu phát biểu của những người có thẩm quyền về công năng của Mandala Tây Tạng.

"Chỉ trong Mật Giáo Tây Tạng, đồ hình Mandala mới thật sự phát triển, trở thành một nghệ thuật độc đáo, nhằm phục vụ cho nhu cầu hỗ trợ Thiền Định".

"Một Mandala thường được tạo nên để hỗ trợ cho việc Thiền Định".

"Các Mandala có một chức năng tự tính (intrinsic) và phổ quát (universal) về cách thực hành Thiền Định. Đây là phương tiện Thiền Định rất uy lực, để vượt qua các nhận thức và tri kiến sai lạc. Chuyển hóa nhận thức hỗn độn thành Trí Tuệ và thế giới Giác Ngộ, Hỉ, Lạc."

.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.

Qua những phát biểu trên, CTR mong quý độc giả xác định tư tưởng, đánh giá đúng mức công cụ Mandala Tây Tạng, trong việc giúp mình Quán Chiếu, tập trung tư tưởng, để đưa đến Định Tâm.

Hy vọng quý độc giả không ngộ nhận Mật giáo Tây Tạng và trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy.

Bài viết này chỉ nhắm mục đích duy nhất là giúp quý độc giả sử dụng Mandala Lục Độ Mẫu, như một công cụ để tập luyện Định Tâm. CTR không bàn tới những thông tin khác liên quan đến Mandala vì không muốn làm cho quý độc giả phân vân, bối rối, mất phương hướng … Đó là điều tối kỵ cho việc tập trung tư tưởng.

Rất mong nhận được sự phản hồi của quý độc giả trên thực tế.

Trong bài viết tiếp, CTR sẽ trình bày những phần tiếp theo của Mandala Lục Độ Mẫu, rất mong quý độc giả quan tâm theo dõi.

Kính chúc quý độc giả tu tập thành công!


http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-thuc-hanh-3.html




Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Thiền Định Lý Thuyết 2



Ứng dụng 7 biến hành tâm sở Vi Diệu Pháp trong thiền định

Trước khi tiếp cận về phần lý thuyết của bài số 2, CTR xin trao đổi cùng quí độc giả vài nét chung chung về vấn đề thiền định. Nói theo ngôn từ của Phật giáo thì số lượng các trường phái Phật giáo ngày hôm nay còn nhiều hơn lá trong rừng. Chùa chiền mọc lên như nấm sau mưa, nhưng thực tế chúng ta thấy, hình như ít người tu đạt được kết quả (hay là có thể có những kết quả mà chúng ta không được biết).

Về tài liệu tu tập thì ngay cả các trường phái cùng là Phật giáo nguyên thủy, cũng sử dụng những loại tài liệu khác nhau.

Có rất nhiều tài liệu gọi là Vi Diệu Pháp. Điều rắc rối là trong một tài liệu Vi Diệu Pháp, thì cũng có đầy dẫy những mâu thuẫn đến mức vô lý, không thể hiểu được. Người dịch sách thì có sao họ cứ dịch như vậy. Do đó, có rất nhiều câu, nhiều chữ, nhiều phần bị trùng lấp, đối nghịch. Điều này làm cho người xem vô cùng mất thời gian, thậm chí là không thể hiểu được… Những tôn giáo khác thông thường họ chỉ có một vài tài liệu chứ không thiên kinh vạn quyển như Phật giáo, do đó khi làm công việc khảo cứu những tài liệu này, CTR cố gắng hết sức để gạn lọc. Hy vọng có thể cung cấp cho độc giả những tài liệu mang tính nhất quán và trung thực nhất. Dù rất nỗ lực nhưng đây chỉ là một hy vọng chứ không phải là một sự thật. Rất có thể CTR còn sai lầm rất nhiều vấn đề, và chưa chắc gì việc khảo cứu, sắp xếp, hệ thống hóa… đã đạt đến một mức độ đáng tin cậy nào đó.

Nếu quí độc giả có sử dụng những tài liệu của Vi Diệu Pháp để đối chiếu, thì quí độc giả sẽ thấy tính chất không thống nhất của các tài liệu. Mặt khác, quí độc giả cũng đừng quá âu lo khi đọc hoặc khảo cứu những tài liệu Vi diệu pháp mà thấy mình hiểu rất ít hoặc chẳng hiểu gì cả.

Với kinh nghiệm nhiều năm làm công việc khảo cứu, CTR hy vọng đã vận dụng được một số ý tưởng cơ bản của Vi Diệu Pháp để ứng dụng vào thực tế hành thiền.

Việc định tâm là một bài toán khó giải cho bất cứ ai là con người. Do đó, Vi Diệu Pháp có một hệ thống riêng của mình, để sắp xếp các loại tâm của các thực thể. Cách chia này chúng ta không thấy trong khoa học hiện đại ngày hôm naỵ

Nếu chia theo cảnh giới thì có 4 loại tâm:
1.Dục giới tâm
2.Sắc giới tâm
3.Vô sắc giới tâm
4.Siêu thế tâm

Nếu chia theo tính chất riêng của từng loại tâm thì có:
1.Bất thiện tâm
2.Thiện tâm
3.Dị thục tâm
4.Duy tác tâm

Nếu chia theo tầm vóc của tâm:
1.Tâm vương
2.Tâm sở

Nếu chia theo giá trị đạo đức

1.Bất thiện tâm
2.Vô nhân tâm
3.Tịnh quan tâm

Nếu chia theo mục đích tái sinh:
1.Dị thục tâm
2.Duy tác tâm

Nếu chia căn cứ vào căn nhân:
1.Hữu nhân
2.Vô nhân

Rất có thể còn những cách chia khác, ở những tài liệu VDP khác.

Những quí độc giả ít có kinh nghiệm về lý thuyết Phật giáo, đặc biệt là về những tài liệu Vi Diệu Pháp sẽ cảm thấy bối rối mất phương hướng, khi thấy cách sắp xếp, chia chẻ các loại tâm như trên. Lý do là vì có nhiều tài liệu Vi Diệu Pháp, mỗi cuốn lại do một luận sư viết ra, mỗi luận sư lại có những nhận xét, cách suy nghĩ, cách sắp xếp khác nhau.

CTR sẽ giải thích để quí độc giả làm quen với cách sắp xếp các loại tâm như trên. Hiểu biết các loại tâm là điều rất cần thiết, nếu quí độc giả có ý định đi trên con đường dài thiền định của truyền thống Phật giáo nguyên thủỵ

Sau đây CTR sẽ minh họa bức tranh tổng thể về vấn đề nàỵ

Theo tài liệu Vi Diệu Pháp, một thực thể như con người chẳng hạn, có cấu tạo tâm là vài trăm tâm. Càng lùi lại nấc thang tiến hóa thì số lượng tâm càng tăng lên và ngược lại.

Quí vị xem lại bảng chia tâm nói trên, và cố gắng nhớ được những tư tưởng cơ bản.

Bây giờ lấy thí dụ một “đơn vị tâm” là: tâm “sân” (từ bình dân gọi là cáu giận), và chúng ta bắt đầu giải thích theo quan điểm VDP.

Tâm này xét ở tiêu chuẩn đạo đức, được sắp vào bất thiện tâm, xét ở tiêu chuẩn cảnh giới, thì tâm này chỉ hiện hữu ở cảnh dục giới (tất nhiên bao gồm cả cảnh thiên dục giới), nhưng chắc chắn tâm này không thể hiện hữu ở cảnh sơ thiền hữu sắc. Lý do là vì ở sơ thiền hữu sắc có một tâm là khắc tinh, là đối nghịch và làm cho tâm “sân” triệt tiêu: đó chính là tâm TẦM. Do đó nếu có ai cho là họ có trình độ tam thiền tứ thiền gì đó mà còn có thể đánh nhau với con rồng hoặc với các…vị Phật vì lý do nào đó, là hoàn toàn không có cơ sở.

Nếu xét ở góc cạnh tái sinh của Tâm “sân”, thì chắc chắn tái sinh sẽ xảy ra. Xét ở căn nhân, thì tâm sân là hữu nhân…

Nói một cách vắn tắt thì gần như bất cứ một tâm nào đó, cũng có thể xét ở rất nhiều góc cạnh. CTR hy vọng lối chia chẻ này sẽ không quá phức tạp khó hiểu và tạo ra gánh nặng kiến thức dư thừa làm khổ tâm, khổ trí người tu thiền định. Nếu chúng ta lấy mục đích là sự giải thoát, là niết bàn, là khô cạn các phiền não…thì việc hiểu biết cặn kẽ các loại tâm về tất cả các mặt, rất có lợi cho người tu thiền định.

Người tu thiền định theo truyền thống Phật giáo, ở cảnh giới sơ thiền hữu sắc, thì tâm vương sơ thiền hữu sắc câu hữu với các tâm sở là: tầm, tứ, nhất tâm, hỉ, lạc, nhưng sự thật là sử dụng trên 30 đến 40 tâm sở. Nếu không hiểu rõ điều này; cụ thể là chấp vào thành quả của thiền định, thì tạo ra thiền thiện tâm, đưa đến kết quả là: thiền thiện dị thục tâm, có nghĩa là đưa đến luân hồi sanh tử. Nhưng nếu hiểu rõ cách sử dụng các tâm này, hành thiền với tâm trạng căn nhân, duy tác, thì hệ quả hoàn toàn khác. Rõ ràng rằng cùng tu thiền định, nhưng nhờ có kiến thức VDP nên đã tránh được một hệ quả, mà hầu hết người ta vô tình đều mắc phải. Việc hiểu rõ các yếu tố tâm, tuy vất vả thật, nhưng hệ quả cũng rất xứng đáng.

Sau khi chúng ta có những khái niệm tối thiểu, về cái lợi cái hại của việc hiểu biết các tâm trong VDP, CTR sẽ bắt đầu trình bày khoảng trên 30 tâm sở khi chúng ta tu sơ thiền hữu sắc.

Tâm sở là gì?

Tâm sở là những tâm nhỏ, có 4 đặc tính sau đây cùng với tâm vương.

- Cùng sanh với tâm vương.

- Cùng diệt với tâm vương

- Cùng một đối tượng với tâm vương

- Cùng căn với tâm vương

Trước nhất, CTR xin trình bày 7 biến hành tâm sở.

7 biến hành tâm sở là:

Xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn, tác ý

Ý nghĩa của từng từ ngữ:

Xúc: tiếp cận, chạm đến đối tượng. Đối tượng có thể là tinh thần hay vật chất. Nó là yếu tố đầu tiên khi chúng ta tiếp cận với đối tượng bằng các giác quan bình thường. Theo khoa học thì việc nhìn thấy mặt trăng là do các quang tử (photon) của mặt trăng đụng chạm vào con mắt chúng ta. Do đó, người ta sắp xếp xúc là yếu tố đầu tiên.

Thọ: sau khi tiếp xúc với một đối tượng tinh thần hoặc vật chất, thì chúng ta nhận lãnh, thọ lãnh một cảm giác nào đó, thí dụ chúng ta thọ nhận cảm tưởng ánh sáng mặt trăng là đẹp, thọ này gọi là thọ lạc. Tiếp cận với một cảnh tai nạn xe khủng khiếp, chúng ta thọ khổ.

Tưởng: ở đây là nhận biết đối tượng.

Tư: là suy nghĩ về đối tượng, định đoạt các hành động sau nàỵ

Nhất tâm: chú ý trên một đối tượng

Mạng căn: nuôi dưỡng đối tượng.

Tác ý: là đưa tâm đến đối tượng, cũng như một người lái con thuyền, đưa con thuyền tới đích.

Cách sử dụng 7 biến hành tâm sở khi thiền định:

Khi quí độc giả ít nhiều đã định tâm, hãy chú tâm để quán sát từng tâm một của 7 tâm sở nói trên.

Khi chúng ta quán tưởng mặt trăng chẳng hạn, tâm này gọi là tâm tầm. Nó có nghĩa là tìm kiếm, đụng chạm tới đối tượng là mặt trăng. Sau đó, chúng ta cảm nhận được tình cảm phát sinh khi quán được hình ảnh mặt trăng, tâm này gọi là thọ…Quí độc giả cứ tiếp tục như vậy với 30 – 40 tâm sở. Bộ não chúng ta sẽ trở nên quá tải với cách thức này và có thể đưa chúng ta nhập định.

Như phần trước CTR có trình bày, việc quán sát các tâm sở này rất là có lợi cho người tu thiền định. Vì chúng ta phải chú tâm vào quá nhiều vấn đề, liên tục không đứt quãng. Chủ đích chúng ta là tu định, thì bây giờ có quá nhiều đối tượng để tu định. Việc tìm hiểu ý nghĩa của nhiều loại tâm sở, vô tình chúng ta đang tạo ra một loại tu quán. Không những vậy, chúng ta còn có thể phát hiện ra nhiều tâm khác mà sách vở chưa nhắc tới. Mặt khác, chúng ta biết ngăn chặn những tâm không thích hợp, những bất thiện tâm lén lút xuất hiện trong lúc chúng ta tu thiền định.

Căn cứ vào kinh nghiệm của các Lạt Ma Tây Tạng, thì việc quán xét trên 30 tâm sở, trở thành một dạng đàn pháp. Cách này có thể làm cho ai cũng nhập định được, không cần thiết phải có tư chất thông minh.

CTR lạc quan tin tưởng rằng, với cách tập này nhiều quí vị sẽ thành công.

Trong bài viết tới CTR sẽ tiếp tục trình bày những tâm sở còn lại.

Kính chúc quí độc giả được nhiều may mắn.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-ly-thuyet-2.html

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

冥想練習2:分析的禪修方法在阿昆達摩 Thiền Định thực hành 2: Phân tích PP hành thiền bằng Vi Diệu Pháp


數的1綜述。
1.Chung我們試圖找到一個私人的地方,我的床是實用的,適合冥想練習。
2。時間:對個人的生理和心理依賴,有些人喜歡早起,有些人喜歡睡懶覺,選擇最合適的時間給自己。嘗試冥想的習慣是可以隨時隨地。事實上,如果你這樣做,那麼我們會非常有信心,因為死者可以選擇的地點和時間。
3.Chon找到自己適合的位置,手感舒適。鬆弛,舒適的尺度是什麼?答案是在這個位置上,我們可以睡覺,作好。
4.Tu選擇對象的可視化,例如: 6場星,兩個三角形重疊。
5.Chung ,我們可以組成這些對象冥想,沒有必要要求幫助的人。對象只能在一定期間內的時間僅使用。如果反复使用,該對象變得乏味,不再有效,以使我們的心停滯不前。不斷尋求改變話題。
6,說記得要集中在這個問題上:
•專注於一個單一的字符,這個字符不知道什麼,但注意的是關注。
•注意的水平,你會發現自己同一個對象。

這兩個語句外,來自藏傳密宗的學校。

可能有更多的讀者,千萬不要有足夠的時間來了解西藏密宗學校,所以聽到這個詞的密宗,你認為它是一所學校的神奇的實踐規則。其實,這所學校集中的特殊濃度。作為藏傳密宗物濃度似乎是堅實的基礎,骨幹,是萬能鑰匙打開所有的門神秘主義者。因此,它們很專業專心專注。總之,它似乎是密宗藏語言工具真空,法國......所有這些都是為了使醫生可以達到最高級別的護理。




該階段的濃度:

根據阿毗達摩,我們的思想,通過3個階段的重點是:

觀察對象用肉眼稱為前部長( parikamma這個詞)

*閉上你的眼睛,但仍然可以想像對象,稱為粗下午( Uggaha這個詞的)

*對象是通過光的狀態,被稱為光學部長(這個詞Patibhara )




商譽的過程如下:

範圍:試圖找到對象。具體來說,當小姐坐著,我們要盡量記住圖片月亮,皎潔如可能。

四:盡量保持從丟失的月球圖像。如果你做了上述的兩個任務,在心理學,推論是最有興趣的產生商譽。

最受關注:心臟停滯不前。這可以發生在很短的時間,或者更長的時間,這取決於利益結構中,個人身份組成。

我希望各位讀者注意到了這一點:心靈是最心停滯不前,但並不意味著我們必須要知道自己的身份禪定。譚站定,只是意味著我們暫時失去意識暫時正常。我們的工作對應到一定的境界,又是另一回事。

很多人誤以為心停滯不前,失去了知覺暫時正常,在某些領域具有幾個實體,聲稱已經達到佛教涅槃。事實上,很多人在這種狀態下,能夠滿足死者親屬。這很容易解釋,因為我們的心靈結構,其結構的狐猴中心,有許多相互兼容。

喜:很高興達到最佳的精神狀態。這種心態在現實生活中並不存在。由於心靈的特殊性質多打坐,讓大家開心一下。

:幸福可以比較,作為一個醉人的吸毒者,但也有其他的事情,幸福不會有副作用,如使用麻醉品。




在實踐中,點擊率已經提出了一些冥想的科目,因為科目取得優異的結構要求阿毗達摩方法。它是為你的讀者可能會奇怪的物體。因此,奇怪的物體應該能夠創建一個高度關注,希望是更容易照顧。

該中心鉛例句,用意念, CTR的建議,它看起來很簡單的外觀。但是你的讀者可能沒有想到,是基於材料阿昆達摩上是領先的例子,這種關注已經遊說,使30至40的心理活動系統,創建狀態關注。

CTR許可解釋你不知道阿毗達磨可以得到基本外觀。的心臟的大小(如服裝大小)根據阿昆達摩,分為兩種類型。大型稱為意識,伴隨小。你可以用下面的例子來說明概念的意識和精神狀態:一間教室,有許多的桌子和椅子...意識是教室,有精神的家具,桌子,講台..讀者需要明白一個概念, ,也每個字的意思是使用在阿昆達摩材料。要記住這一點,我們有沒有其他的方式來學習單詞的含義,就像學習外語。起初,我們慢慢習慣的話,但把握不住思想的問題的文件。

談到在越南的材料阿昆達摩幾十年現在有很多,但最重要的是多麼的業務,複製書籍。大家都說這是偉大的材料,超高,但問題是如何使用這種材料阿昆達摩?換句話說,就是如何把頁面理論轉化為具體的工具,以幫助人們打坐?如何阿昆達摩可以成為北極星,北極星,地圖,讓人們可以靜心向前發展的信心?缺乏阿昆達摩星光制導的打坐修煉成為一個冒險,完全看運氣!




當我們到達心臟時,會發生什麼事?

假設有一些讀者,當你真正實現上述技術,取得了一點點的精神狀態心態固步自封,也許將發生以下情況:
1.Nho這種技術使得頭腦冷靜的頭腦,暫時忘記憂慮焦急的生活,走的快睡著了,渾然不覺在很長一段時間有可能是短期的。
2,用途濃縮技術,但並不複雜,它反而變得迷惑的心靈,交流任職。
的3.Khi停滯不前不在乎誰打坐發現無數的光點,稱為SA星系,或者找到一個亮點,被稱為歐洲的模型妮在一個比較大的額頭。發現自己到另一側傾斜,傾斜,有時它去實現,不管是什麼你可以看到自己。
4.Co看到死者親屬,見陌生人,看到一個熟人,找到自己在隧道光在前面。
5位置以自我為中心,但不知道往哪個方向走,我不知道做什麼,怎麼做,什麼不該做,因為我沒有經驗......因此,帶來了莫名其妙的情緒。

綜上所述,有兩種可能性,可能發生在缺乏經驗的冥想:
1.Lui回在進化的道路上,他們經常去的死者,可能是親戚,陌生人。由於在腦海中的不確定性和不理解全部或到現場,因此,它被稱為地獄。這是比人的境界的情況更糟糕。他們不區分太陽,清晰的土地,很多時候下午和晚上。小組首頁的實體,皮膚黝黑,不善。在這一領域的道路往往不知道去哪裡,總是不知道如何找到你的出路。如果你是幸運的,然後再有稀疏的農村,這樣的準則並不清楚地知道哪裡去了......總之,現場有痛苦的所有特徵。
2。如果運氣好的話,人們打坐,具有相對較高的中心結構比普通品種,常見的本地災難現場。領域頗為相似的場景,包括書籍,梅魯山腳下(梅魯山只有一個字來說明的境界,而不是如山,因為我們通常認為) 。像熱帶雨林茂密的叢林中,這種境界,但沒有雨,男,女...

上面的描述能力只屬一般,常見到一個新的禪修。我們也知道, “中心頭,中心所有的文物” ,讓一個人會遇到冥想的境界,不能告訴所有。這取決於組成的個人關注。事實上,我們從來沒有發現兩個人,講述冥想的經驗相同。因為沒有結構性的心都是一樣的,那麼,如何才能在同一個領域。




為什麼精心冥想,我們解決任何仁慈嗎?

如果我們實施的所有進程表示關注事態發展的初衷:

範圍,四核,獨一味,喜悅,樂觀的態度。

晶體的中心的外觀如下:蝕刻意識

憤怒,貪婪,懶惰,煩躁,持懷疑態度。

這是很容易理解的解釋。雖然我們尋求的對象稱為範圍集中,然後憤怒不能同時存在。雖然我們竭盡所能,努力保持不賠的對象,心靈渴望消除強制性。停滯不前心靈的最佳時間是頭腦,那麼我們當然不能認為分心是偶然的,我們能不能至少在頭腦中的混亂。總之,各種有機卓越禪定中心,任何藥物的劑量治療上述商譽。因此,當我們明白這一點,那麼你的讀者發現上述中心,除了導致三昧,另一種是仍然有可能消除任何仁慈。只有找到了一點點的心靈孤獨,讓你的讀者看到的獨特的自然,神奇的阿毗達摩材料,但我們無法找到任何其他文件。

這使得我們不知道這個文件是否是在同一時間或企業誕生後,它也有很多幾十個世紀前撰寫的。為什麼這個古老的時間在人類歷史上,人們已經進化為人類太遠。即使進入21世紀,月球車到火星只需要12分鐘,這是我們沒有一個學人的心靈,如阿毗達摩材料已被記錄。




親愛的讀者,

這是慣例,但這種做法是由於部分是看不見的,無數的照片,我們需要用言語來形容。練習冥想的排序操作,選擇那種已經下定決心。

如果你想打坐了堅實的基礎,然後我們被迫禪定自己的身份意識和精神狀態檢查。想提前到冥想課,我們必須知道如何去安排選擇適當的照顧。

另一方面,有理解的元素,使的身份,因為身份不同領域組成。當你明白這個問題,我們不要陷入,當他會見了佛,當他遇到了鬼...混亂,不知道如何解決,說:“認識佛擋殺佛,殺鬼的遭遇馬“ 。的原則,說阿毗達摩佛教思想,殺,殺鬼,是邪惡的頭腦就是利息。這是非常有害的,在任何角度任何地方打坐。它創造所謂的友好的人民,不僅是一種不道德的。這種精神是一記實地考察,採取輪迴。

一個常見的問題,每個人都害怕,那就是保持問題。關於唯一的真正的生活作風,生活方式,風俗習慣,在其他領域,我們認為實體的做法是高於人的境界。我們可以提供一個相當簡單的圖片說明如下:如果有人去了法國,美國......我們必須學會講法國或美國。喜歡吃肉,如果合適的男性和女性之間的關係過於...的生活方式不適合現場禪定自己的身份。在房地產領域禪定身份,取得了一系列的興趣,因此不可能存在的憤怒。同樣,因為最令人興奮的,溝通,關係不應該是尋找快樂的,樂觀的男性和女性。

問題是不是言教強制性的,但更確切地說,它是進化階梯的宗教權利。

上面的知識似乎是理論上的,但在冥想沒有這樣的認識,將帶領我們無盡的混亂,傷害自己。

在接下來的文章:冥想理論2 ,點擊率將呈現一個相當複雜的問題(你希望讀者不會氣餒) ,描述30至40伴隨冥想課程的意義在一般和特定的禪定。

這篇文章有兩個好處:

讓你的讀者有一個相對的概念,牢牢的層結構的中心,在一般冥想。

他在靜坐中,你我的讀者都有權觀察。例如6種不同的場景,觀察精神狀態是:範圍,季度,獲獎,努力,快樂,性別。在三摩地,我們要盡量記住上面的中心,那麼你也有讀者的眼光來解釋的意思是什麼?四是什麼?贏得什麼?查詢我的自我與心靈與否。只有與公眾關注的一些注意只有這樣,這種思維會讓我們知道超載。讀者誰突然看到這副作用的中心。雖然心臟,你的讀者要盡量保持記憶的7個變量和它的精神意義上的,這會讓你的讀者機械濃度。不經意間,我們已經使用了法律論壇,創建一個國家的極大興趣。有珍貴的讀者會狠狠的濃度,峰值,在任何你的讀者從未嚐過

CTR的讀者向你保證,讀者,如果你申請這個過程機械和徹底,我們還可以創建一種精神狀態,不像西藏僧侶,男人這個著名的老法。




最後,三個國家級信件代表CTR博客上感謝你的讀者的興趣。點擊率不會有一個具體的學校冥想本身。一切都在冥想,小乘學校所有的理論和實踐。 CTR的工作是收集,整理,安排的信息,可能是小乘學校。小乘教派和拉賈瑜伽學校的材料有許多不同的版本。因此,整理,分析,綜合和應用,其實是一個相當長的距離。 CTR的觀點是不保護或反駁任何學校的,但只是試圖使恆星,尋找信息,從實際經驗得出,呈現給讀者,可以得到最客觀的。希望讀者冥想的路徑是非常有用的信息。
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-thuc-hanh-2.html
Thiền Định thực hành 2: Phân tích PP hành thiền bằng Vi Diệu Pháp
Phân tích PP hành thiền bằng Vi Diệu Pháp




Tóm lược bài số 1.
1.Chúng ta cố gắng tìm một địa điểm riêng tư, giường ngủ của mình là nơi thực tế, lý tưởng để tu thiền định.
2.Thời gian: lệ thuộc vào tâm sinh lý của từng cá nhân, có người thích dậy sớm, có người thích ngủ trễ, chọn thời gian nào phù hợp nhất đối với mình. Cố gắng tạo ra thói quen là có thể thiền định bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Thật vậy, nếu làm được điều này thì chúng ta sẽ rất tự tin; vì khi chết đâu thể chọn địa điểm và thời gian.
3.Chọn một vị thế nào thấy phù hợp với chính mình, cảm thấy thoải mái. Cái gì là thước đo về sự thư giãn, thoải mái? Câu trả lời là trong vị thế đó, chúng ta có thể ngủ được, đó là vị thế tốt.
4.Tự chọn lựa đối tượng để quán tưởng, thí dụ như: ngôi sao 6 cánh, là hai tam giác chồng vào nhau.
5.Chúng ta có thể tự sáng tác ra những đối tượng để quán tưởng, không cần phải nhờ vả ai cả. Đối tượng nào cũng chỉ có thể dùng trong một thời gian nào đó mà thôi. Khi sử dụng nhiều lần, đối tượng đó trở nên nhàm chán, không còn hiệu nghiệm để làm cho tâm chúng ta đứng im. Liên tục tự tìm các đối tượng để thay đổi.
6.Cố gắng nhớ lại câu nói về vấn đề chú tâm:
•Chú tâm vào một vật duy nhất, đến nỗi không còn biết gì ngoài vật chú tâm đang chú tâm.
•Chú tâm đến mức độ, mình thấy như mình với đối tượng là một.

Hai phát biểu nói trên, được rút ra từ trường phái Mật Tông Tây Tạng.

Có thể có nhiều quí độc giả, không có thì giờ để tìm hiểu về trường phái Mật Tông Tậy Tạng, nên khi nghe tới chữ Mật tông, quí vị liên tưởng đó là một trường phái tu luyện phép tắc thần thông. Thật ra trường phái này đặc biệt chú trọng đến việc tập trung tư tưởng. Dường như Mật giáo Tây Tạng coi vấn đề tập trung tư tưởng mạnh mẽ là nền móng, là xương sống, là chiếc chìa khóa vạn năng để mở tất cả các cánh cửa huyền môn. Vì vậy họ vô cùng chú tâm đến kỹ thuật tập trung tư tưởng. Nói tóm lại, hình như đối với Mật giáo Tây Tạng, các công cụ chân ngôn, đàn pháp… đều nhắm mục đích là làm cho người tu có thể đạt được mức độ định tâm cao nhất.




Các giai đoạn của tập trung tư tưởng:

Theo tài liệu Vi Diệu Pháp, thì việc tập trung tư tưởng của chúng ta đi qua 3 giai đoạn:

* Quan sát bằng mắt thường một đối tượng được gọi là sơ tướng (Parikamma Nimitta)

* Nhắm mắt nhưng vẫn hình dung được đối tượng, gọi là thô tướng (Uggaha Nimitta)

* Đối tượng chuyển qua một trạng thái là ánh sáng, gọi là quang tướng (Patibhara Nimitta)




Tiến trình của các thiền chi như sau:

Tầm: là cố gắng đi tìm đối tượng. Cụ thể là khi ngồi công phu, chúng ta cố gắng nhớ ra hình ảnh mặt trăng, rõ nét nhất có thể.

Tứ: cố gắng giữ cho hình ảnh mặt trăng không bị mất đi. Nếu làm được hai thao tác nói trên về tâm lý, thì hệ quả tất yếu là sanh ra thiền chi nhất tâm.

Nhất tâm: là tâm đứng im. Việc này có thể xảy ra trong thời gian rất ngắn, hoặc có thể dài, tùy theo cấu tạo tâm, cấu tạo sắc của từng cá nhân.

Mong quí độc giả để ý điều này: nhất tâm là tâm đứng im, chứ không có nghĩa là chúng ta đã đến được cảnh sơ thiền hữu sắc. Tâm đứng im, chỉ có nghĩa là chúng ta mất đi ý thức bình thường tạm thời trong giây lát. Việc chúng ta tương ưng với một cảnh giới nào đó, lại là vấn đề khác.

Rất nhiều người hiểu lầm rằng khi thấy tâm đứng im, mất đi ý thức bình thường tạm thời, gặp một vài thực thể ở cảnh giới nào đó, lại cho là mình đã nhập niết bàn gặp Phật. Thật vậy, ở trạng thái này, rất nhiều người có thể gặp các thân nhân đã quá cố. Việc này rất dễ giải thích, vì cấu tạo tâm của chúng ta, và cấu tạo tâm của các vong linh, có nhiều điểm tương thích lẫn nhau.

Hỉ: mừng rỡ vì đạt được trạng thái là nhất tâm. Trạng thái tâm này không hiện hữu trong cuộc sống đời thường. Vì tính chất đặc biệt của thiền chi nhất tâm nên làm cho chúng ta vui mừng.

Lạc: Hạnh phúc này có thể so sánh, như một người sử dụng chất say, nhưng có điều khác biết là hạnh phúc này không có phản ứng phụ như người sử dụng chất say.




Trong phần thực hành, CTR có đề xuất một số đối tượng để quán tưởng vì những đối tượng này đạt yêu cầu về cấu tạo sắc pháp của Vi Diệu Pháp. Rất có thể những đối tượng này hơi lạ đối với quí độc giả. Vì đối tượng lạ nên có thể tạo được mức độ chú tâm khá cao, hy vọng có nhiều khả năng đưa tới định tâm.

Việc dẫn dụ tâm bằng những câu nói, bằng những tư tưởng mà CTR đề xuất, thì nhìn vẻ bề ngoài rất đơn giản. Thế nhưng rất có thể quí độc giả không ngờ, là căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp, thì việc dẫn dụ tâm này đã vận động làm cho 30 đến 40 tâm sở hoạt động một cách có hệ thống, để tạo ra trạng thái chú tâm.

CTR xin phép giải thích để quí vị nào chưa biết về Vi diệu pháp có thể có được cái nhìn cơ bản. Theo tài liệu Vi Diệu Pháp, thì kích cỡ của tâm (kiểu như size quần áo) được chia làm hai loại. Loại lớn gọi là tâm vương, loại nhỏ gọi là tâm sở. Có thể dùng thí dụ sau đây để minh họa khái niệm về tâm vương và tâm sở: một phòng học thì có nhiều bàn, ghế... Tâm vương là cái phòng học, còn tâm sở là bàn ghế, bảng, bục.. Quí độc giả rất cần phải nắm được khái niệm này, đồng thời cũng phải thuộc được ý nghĩa của từng từ ngữ được người ta sử dụng trong những tài liệu Vi Diệu pháp. Để nhớ được điều này, chúng ta không có cách nào khác là học ý nghĩa của từ ngữ y như học ngoại ngữ. Ban đầu chúng ta từ từ làm quen với các từ ngữ, chứ chưa thể nắm được vấn đề tư tưởng của tài liệu.

Nói về tài liệu Vi Diệu Pháp thì ở Việt Nam có rất nhiều từ mấy thập kỷ nay, nhưng đa phần chỉ là sao kinh, chép sách. Ai cũng nói đó là tài liệu rất hay, rất cao siêu; nhưng vấn đề là làm sao để có sử dụng tài liệu Vi Diệu Pháp này? Nói một cách khác là làm sao biến những trang sách lý thuyết, thành những công cụ cụ thể để trợ giúp người tu thiền định? Làm thế nào để Vi Diệu Pháp có thể trở thành kim chỉ nam, thành ngôi sao Bắc Đẩu, thành tấm bản đồ, để cho người tu thiền định có thể tiến bước với niềm tin? Thiếu ánh sao Vi Diệu Pháp dẫn đường việc tu thiền định sẽ trở thành một cuộc phiêu lưu đầy may rủi!




Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta đạt được định tâm ?

Đặt giả thuyết là có một số quí độc giả khi triển khai trên thực tế kỹ thuật nói trên, đã tạo được ít nhiều trạng thái định tâm hay tâm đứng im, có thể những điều sau đây sẽ xảy ra:
1.Nhờ kỹ thuật định tâm này làm cho tâm yên ổn, tạm quên đi những âu lo khắc khoải của cuộc sống, ngủ mê đi, không biết gì trong một thời gian có thể dài, có thể ngắn.
2.Ứng dụng kỹ thuật định tâm này, nhưng chưa được tinh xảo, thì thay vì định tâm lại trở nên mê muội, trạo cử.
3.Khi tâm đứng im ít nhiều, người tu thiền định thấy vô số các điểm sáng, gọi là hà sa, hoặc thấy một điểm sáng ở trước trán tương đối lớn, gọi là mô ni châu. Có khi lại thấy mình nghiêng bên này, nghiêng bên kia, có lúc lại muốn quay về phía nào đó, không thấy thân vật chất mình đâu.
4.Có thể thấy những thân nhân đã quá cố, thấy người lạ, thấy người quen, thấy như mình đi trong một đường hầm có ánh sáng ở phía trước.
5.Đạt được định tâm, nhưng chẳng biết đi đường nào, không biết mình phải làm gì, nên làm cái gì, không nên làm cái gì, vì mình chẳng có kinh nghiệm gì cả… Do đó, mang tâm trạng phân vân.

Tóm lại, có hai khả năng có thể xảy ra cho một người tu thiền định thiếu kinh nghiệm:
1.Lùi lại trên con đường tiến hóa: họ hay gặp các người đã quá cố, có thể người thân, người lạ. Do tâm bất định và không hiểu rõ gì cả nên hay tới những cảnh mà người ta gọi là địa ngục. Đây là những cảnh xấu hơn cảnh giới của loài người. Họ không phân biệt Trời, đất rõ ràng, thời gian thường là lúc chiều và tối. Các thực thể ở trong các căn nhà tập thể, tối tăm, nghèo nàn. Đường đi ở trong khu vực này thường loanh quanh không biết đi đâu, tìm mãi đường ra không biết làm sao ra. Nếu may mắn ra được, thì lại gặp cảnh làng quê thưa thớt, đường lối không rõ ràng chẳng biết đi về đâu…Nói tóm lại, cảnh giới có tất cả những đặc trưng của cảnh khổ.
2.Nếu may mắn, người tu thiền định, có một cấu tạo tâm tương đối cao hơn loài người bình thường, thì thường gặp cảnh địa thiên. Cảnh giới này khá giống với cảnh sách vở có kể đến, là ở dưới chân núi Tu Di (núi Tu Di chỉ là một từ ngữ để minh họa về cảnh giới, chứ không phải như một quả núi như chúng ta thường nghĩ). Cảnh giới này rừng núi rậm rạp kiểu như rừng nhiệt đới, nhưng không có mưa nhiệt đới, có nam, có nữ…

Những mô tả trên đây chỉ là một số khả năng chung chung thường xảy ra cho một người mới tu thiền định. Chúng ta cũng biết là “Tâm đứng đầu, tâm tạo tác tất cả”, do đó cảnh giới mà một người tu thiền định sẽ gặp, không thể nào kể hết. Nó lệ thuộc ở cấu tạo tâm của từng cá thể. Thật vậy, chúng ta không bao giờ tìm thấy hai cá thể, lại kể lại kinh nghiệm thiền định giống y như nhau. Vì cấu tạo tâm không ai giống ai cả, nên làm sao có cảnh giới giống nhau được.




Tại sao khi công phu thiền định, chúng ta giải quyết được bất thiện tâm?

Nếu chúng ta triển khai một cách bài bản thì tiến trình của các tâm có diễn tiến nêu sau:

Tầm, tứ, nhất tâm, hỉ, lạc.

Sự xuất hiện của các tâm này là khắc tinh của các loại tâm kể sau:

Sân hận, tham dục, hôn trầm, phóng tâm, hoài nghi.

Việc giải thích điều này cũng khá dễ hiểu. Trong lúc chúng ta chú tâm đi tìm đối tượng nào đó gọi là tầm, thì tâm sân hận không thể hiện hữu cùng một lúc. Trong lúc chúng ta cố gắng, nỗ lực duy trì đối tượng để đừng mất, thì tâm tham dục bắt buộc phải triệt tiêu. Đến lúc nhất tâm là tâm đứng im, thì tất nhiên chúng ta không thể phóng tâm là nghĩ lung tung, chúng ta không thể mê muội trong lúc nhất tâm. Nói tóm lại, một loạt các tâm của sơ thiền hữu sắc, là liều thuốc để trị các bất thiện tâm kể trên. Do đó, khi hiểu được việc này, thì quí độc giả phát hiện ra những tâm nói trên, ngoài công năng đưa đến nhập định, lại còn một khả năng khác là triệt tiêu các bất thiện tâm. Chỉ với việc tìm hiểu một số tâm nho nhỏ này thôi, chắc quí độc giả cũng thấy tính chất độc đáo, vi diệu của tài liệu Vi Diệu Pháp, mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ tài liệu nào khác.

Điều này khiến chúng ta kinh ngạc tự hỏi, dù tài liệu này đã được trước tác cùng lúc hay là sau khi những bộ kinh ra đời, thì cũng đã cách đây nhiều chục thế kỷ. Tại sao trong lịch sử loài người vào thời xa xưa này, lại có người tiến hóa quá xa đối với nhân loại. Thậm chí thế kỷ 21, xe tự hành đã lên được sao hỏa chỉ mất có 12 phút, mà chúng ta lại không có một tài liệu nào tìm hiểu được cấu tạo tâm của con người, như Vi Diệu Pháp đã từng ghi lại.




Kính thưa quí độc giả,

Đây là phần thực hành, nhưng do là thực hành về một phần vô hình, vô ảnh, nên chúng ta bắt buộc phải diễn tả bằng lời nói. Thực hành thiền định chính là những thao tác sắp xếp, chọn lựa… các loại tâm đã cấu tạo nên mình.

Nếu muốn có một cơ sở vững chắc để tu thiền định, thì chúng ta buộc lòng phải khảo sát các loại tâm vương và các loại tâm sở của sơ thiền hữu sắc. Muốn tiến lên các lớp thiền định, thì chúng ta phải biết cách sắp xếp chọn lựa các tâm phù hợp.

Mặt khác, còn phải hiểu các yếu tố cấu tạo nên sắc, bởi lẽ cấu tạo của sắc rất khác nhau ở các cảnh giới. Khi hiểu rõ vấn đề này, chúng ta mới không rơi vào tình trạng, lúc thì gặp Phật, lúc thì gặp ma…Lúng túng quá không biết giải quyết làm sao, đành đưa ra câu nói “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma”. Trên nguyên tắc Vi Diệu Pháp mà nói, ý nghĩ giết Phật, giết ma, là những tâm được gọi là bất thiện tâm. Nó rất bất lợi cho người tu thiền định xét ở bất cứ góc cạnh nào. Nó tạo ra nhân nên gọi là hữu nhân, không những vậy còn là một tâm bất thiện. Tâm này là một tâm dị thục, có nghĩa là đưa tới luân hồi sanh tử.

Một vấn đề mà thường ai cũng e ngại, đó là vấn đề giữ giới. Giới sự thật chỉ là lề lối sinh hoạt, lối sống, phong tục, tập quán của những thực thể ở những cảnh giới khác, mà chúng ta cho là cao hơn cảnh giới loài người. Chúng ta có thể đưa ra một hình ảnh khá dễ hiểu để minh họa như sau : Nếu ai đó định đi nước Pháp, Mỹ… thì chúng ta phải học nói tiếng Pháp hoặc Mỹ. Nếu thích quan hệ nam nữ một cách thái quá, thích ăn thịt động vật…thì lối sinh hoạt này không phù hợp với cảnh sơ thiền hữu sắc. Ở cảnh giới sơ thiền hữu sắc, có cấu tạo tâm là tầm, do đó không thể có sân hận hiện hữu. Tương tự như vậy, vì nhất tâm và có hỉ, lạc, nên không thể quan hệ nam nữ để tìm kiếm hỉ, lạc.

Vấn đề giữ giới không phải là một việc bắt buộc, mà đúng hơn, đó là quyền lợi của người tu trên nấc thang tiến hóa.

Những kiến thức trên đây có vẻ như thiên về lý thuyết, nhưng trong lúc thiền định mà thiếu những hiểu biết này, sẽ đưa chúng ta đến vô số những lầm lẫn, tai hại cho chính bản thân mình.

Trong bài viết kế tiếp: Thiền định lý thuyết 2, CTR sẽ trình bày một đề tài khá phức tạp (hy vọng quí độc giả sẽ không nản lòng), là mô tả ý nghĩa của 30 đến 40 tâm sở của các lớp thiền định nói chung và sơ thiền nói riêng.

Bài viết này có hai cái lợi:

Làm cho quí độc giả có một khái niệm tương đối vững chắc về cấu tạo tâm của các lớp thiền định nói chung.

Trong khi thiền định, quí độc giả có một cái tôi phải quán sát. Lấy thí dụ quán sát 6 biệt cảnh tâm sở là: tầm, tứ, thắng giải, tinh tấn, hỉ, dục. Trong lúc nhập định, chúng ta cố nhớ những tâm kể trên, rồi quí độc giả còn phải tự giải thích ý nghĩa của Tầm là cái gì? Tứ là cái gì? Thắng giải là cái gì? Mình tự kiểm tra xem mình có những tâm này hay không. Chỉ với việc chú tâm tới một số tâm nào thôi theo cách suy nghĩ như trên cũng sẽ làm cho ý thức chúng ta quá tải. Độc giả bỗng nhiên thấy tác dụng phụ của việc này, là đưa đến định tâm. Trong lúc định tâm, quí độc giả lại tiếp tục cố nhớ đến 7 biến hành tâm sở và ý nghĩa của nó… Việc này sẽ làm cho quí độc giả định tâm một cách cơ học. Vô tình chúng ta đã sử dụng một loại đàn pháp, tạo ra trạng thái định tâm một cách tuyệt vời. Có thế quí độc giả sẽ định tâm một cách dữ dội, cao điểm; mà từ trước đến giờ quí độc giả chưa từng nếm trải

CTR đoan chắc với quí độc giả rằng nếu quí độc giả áp dụng thao tác này một cách máy móc và triệt để, thì chúng ta cũng tạo ra trạng thái định tâm, không khác gì những tu sĩ Tây Tạng, đã sử dụng các đàn pháp nổi tiếng xưa nay.




Cuối cùng, Tam Tiểu Thư xin được thay mặt cho CTR blog chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí độc giả. CTR không có một trường phái tu thiền định nào riêng của mình cả. Tất cả những gì được trình bày trong những bài lý thuyết và thực hành thiền định, đều là của trường phái Phật giáo nguyên thủy. Công việc của CTR chỉ là sưu tầm, hệ thống hóa, sắp xếp…những thông tin mà có lẽ là của trường phái Phật giáo nguyên thủy. Những tài liệu của trường phái Phật giáo nguyên thủy và trường phái Raja Yoga có rất nhiều phiên bản khác nhau. Do đó, việc đối chiếu tài liệu, phân tích, tổng hợp… rồi mang ra ứng dụng trên thực tế, là cả một quãng đường khá dài. Quan điểm của CTR là không bảo vệ hay bài bác trường phái nào cả, mà chỉ cố gắng làm sao, tìm ra những thông tin, rút kinh nghiệm từ thực tế, để trình bày cùng quí độc giả, khách quan nhất có thể được. Hy vọng những thông tin đó, giúp ích được cho quí độc giả trên con đường tu thiền định.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-thuc-hanh-2.html

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

冥想理論1:選定主題的重要性Thiền định lý thuyết 1: Tầm quan trọng của chọn đề mục

冥想理論1:選定主題的重要性
可視化對象的選擇的重要性
(靜心的主題)



從理論上講,我們想提出一些問題,你有這麼多的問題,讀者極大,實踐的基礎上冥想前,冥想的小乘學校。為了避免誤會,請允許譚賣給我只是重申, CTR發言人,唯一的工作,解釋,說明,解釋,資料...的小乘學校的你的讀者。 CTR本身並不具備自己的學校。


之前,有很多的問題,你的讀者還可能冥想練習:


是宗教的性質是什麼?塗是負擔得起的重塑?但是,為什麼需要修復?
TU是祈禱,咒語,冥想,沉思?
有必要設立神壇佛像不?
塗將帶我們去哪裡?為了能夠合併在一個至高無上的,或漫遊日與空行母,是世界教育的結果嗎?從那裡,它是一個工具,解放不給嗎?
有很多話題可視化,所以話題的選擇,依據在哪裡?由於他的老師需要到店自由基(如或多或少關閉)或國家風火元素易字給他們相應的部分嗎?
還有很多其他問題,這將給你的讀者。許多人認為,這樣的生活,儘管痛苦,但也多少喜悅幸福,所以也很不錯。塗有不知道有去任何地方,這麼多的法律做文章,立即遵守?這樣的問題似乎非常。

在本文的討論範圍之內,我們將優先考慮迫在眉睫的實際需要,應您可視化的對象與作者共享。
不能指望很多讀者對象是一個可視化工具,是一個小得多決定的階梯,把人幽思到你想要的境界。缺乏可視化對象的理解是,給我們帶來了其不想要的原因之一。
這些對象列在文檔中巨大的佛教學校。另一方面,你們中許多人已經進行不間斷地使用他的生活。的性質和成效,我們沒有必要討論。
這裡的中心有一個安排,根據其它標準的可視化對象。特別是點擊率的基礎上的技術標準文檔阿毗達摩,並根據經驗有效性的標準。我們設置了三種類型的對象。我希望各位讀者注意,不管使用的宗教物品,只是實踐,實踐是不相符的。
也就是說,對象是幫助人們打坐,實現集中,利息...
我們上面提到的三種類型的對象是:在月球上,一些簡單的花,顏色的大理石。
下面是一個理論來解釋這個對象的類型:
最好的法律標準的基礎上,上述對象的屬性:
的1.Vo人,因為它不符合,財產與不健康的心態:貪婪,仇恨,妄想或非常投入,非常遊戲,很SI 。
海岸,因為2.Huu存在的本質只是暫時的。
非法3.Huu ,因為它是感性的場景的對象,它是憂傷的來源。
4.Huu行為,因為它依賴於五蘊形式,感覺,知覺,意識。
而且還有很多其他的因素......
一個因素是我們特別有興趣眾多因素和身份的性質。該對象類型不具有上述因素,因此上下文之外的性教育。換句話說,這種類型的冥想有很多的機會,採取退出打坐冥想原始有機質。



這些可視化對象,可能會導致假感性的場景:

幾乎所有人都知道,案件聖特麗薩阿維拉天主教學校。這種沉思的女聖人耶穌雕像和更少的能量進入人體雕像。密宗是沒有提及西藏或中國,他們給佛像本身的生物能源。即使人操縱宗教也被稱為開放標籤的雕像。在世界各地的其他學校也很多,有意或無意地,它被稱為阿彌陀佛,佛是佛觀音獨立BA ,瑪麗,卡拉的母親......換句話說,對象,考慮ngiem ,集中,祈禱,沉思,也有明確的性別,即男性或女性。從法律的觀點考慮的對象的身份上是非常有用的。特別是藏族僧侶或集體使用冥想女神空行母。

精神分析的角度來看,這並不少見。生命在子宮內,子宮是最安全的地方。這個地方只有接受和不放棄。第一個出生的,出來了母親的子宮,這是人生的最嚴重的挑戰,因為客觀世界充滿了挑戰危險的敵人。一旦離開庇護所是最安全的,人們不斷帶來懷舊的,想起失去的天堂,是子宮。據精神,宗教符號是因內部糾紛。宗教符號是一種解放的形式隱藏的回憶。

根據阿毗達摩,以及精神,當我們上面可視化,尤其是如空行母的女神,那麼可以肯定它會帶我們到現場的性慾。此可視化工具,具有優良的結構,組合物中心,非常接近人的生命的原因。

曼陀羅,使用帶來介意效率非常高。它是人類的想像力的產物,應該是在世界各地,而不是西藏的特色。建立曼荼羅的原因是非常有效濃度高的情況下,因為它是非常複雜的,需要強大而持續的注意鍛煉身體。因此,該判決的作者亞歷山德拉大衛·尼爾,西藏僧侶,無論是聰明的投資,但使用曼陀羅工具 - 一個工具意外滿足的基本操作需要的心理過程,導致濃度。綜上所述,我們可以解釋這個特定宗教的人是否不聰明,但如果你使用一個良好的可視化工具,那麼集中的原因和影響是必然的結果。這是一個機械的後果。

阿彌陀佛,觀音菩薩的使用是非常流行的國家如越南,中國,韓國,日本......如何行使這些對象,會導致醫生到現場的性慾。

據傳說,阿彌陀的前身是一個王,有1000名兒童。 1000的4個孩子,現在是菩薩或佛,廟祀在越南盛行。建造敏銳的頭腦,並說,他發現相應的感性場景。這當然不能對應到現場禪定自己的身份,因為每個人都知道最好的物業禪定沒有男性,沒有女性由於誤解或不了解情況,滋生辯論無止境的,永遠不會結束。

綜上所述,本文的理論部分, CTR試圖擺脫對受試者的選擇打坐。選擇你喜歡的讀者。其實,並不是所有的宗教的人都像解放。也有喜歡打坐在良好的健康,定期對電視指南。其他人都望而卻步了世俗生活。有些人打坐,別人想宗教自由,但遠遠從解放精緻的路徑。無奈,於是他們很高興與他們的冥想練習的結果是樂趣,下一個目標日期範圍內的空行母他相投。但它也有是你的生命是無常的天性,自然是痛苦,應不斷尋求解脫,找到桑蒂因素。

CTR只想說,說了幾句話,但並不意味著完全阻止你。也許有一天,一步方式去找桑蒂因素的,你意識到太累了,並會進行許多西藏喇嘛做了,忘了生活是實踐總監好了,享受生活,除了空行母。

CTR是偏執的,當我寫這篇?


和未來的現實,將是最實用的答案。知道,當它來談話的時候,你的讀者會記得,譚曾服用此提醒大家。好吧,“一個新的橋樑。”
CTR僅工作提出選擇的菜單選項。畢竟,必殺技是一種精神狀態,個人的主觀心理狀態。這伊甸樂園是別人不知道的。
期待收到您的寶貴意見的

Tầm quan trọng của việc chọn đối tượng quán tưởng
(Đề mục thiền định)



Trong phần lý thuyết, chúng tôi xin đưa ra một số vấn đề mà có thế rất nhiều quí độc giả vô cùng thắc mắc, trước khi thực hành thiền định dựa trên cơ sở, thiền định của trường phái Phật giáo nguyên thủy. Để tránh hiểu lầm, xin cho phép Tam Tiểu Thư được nhắc lại là em chỉ người phát ngôn của CTR, chỉ làm công việc, thuyết minh, minh họa, giải thích, cung cấp thông tin… của trường phái Phật giáo nguyên thủy cho quí độc giả. Bản thân CTR không có một trường phái nào riêng của mình cả.


Có rất nhiều vấn đề, quí độc giả có thể nêu ra, trước khi thực hành thiền định:


Bản chất của tu là cái gì ? Tu phải chăng là tu sửa ? Mà tại sao lại cần phải tu sửa?
Tu có phải là đọc kinh, trì chú, trầm tư mặc tưởng, thiền định ?
Có cần phải lập bàn thờ và có các loại tượng Phật không?
Tu sẽ đưa chúng ta đi về đâu? Để có thể sát nhập với Đấng cao cả, hay để rong chơi ngày tháng với Đakini ; là thành quả của định dục giới ? Tu có thật sự là một công cụ để đưa tới giải thoát không?
Có rất nhiều đề mục quán tưởng, vậy việc chọn đề mục thì căn cứ vào đâu ? có cần nhờ đến ông thày để quán về căn cơ (thí dụ nghiệp sát nhiều hay ít) hoặc yếu tố đất nước gió lửa để có đề mục thích hợp cho dễ tu dễ chứng không ?
Ngoài ra còn rất nhiều câu hỏi khác, mà quí độc giả sẽ đưa ra. Nhiều người cho rằng cuộc đời này cho dù có nỗi khổ, nhưng cũng có nhiều niềm vui hạnh phúc ; thế nên cũng tốt lắm rồi. Tu thì chẳng biết có đi được tới đâu không, mà trước mắt phải tuân thủ biết bao nhiêu giới luật phiền phức ? Những câu hỏi như thế này dường như vô cùng nhiều.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi đặt thứ tự ưu tiên theo nhu cầu thực tế trước mắt, nên sẽ chia sẻ cùng quí hành giả về đối tượng quán tưởng.
Có thể nhiều độc giả không ngờ là : đối tượng quán tưởng là một công cụ, là một nấc thang ít nhiều quyết định, đưa người tu thiền định đến cảnh giới mà mình mong muốn. Thiếu hiểu biết về đối tượng quán tưởng là một trong những nguyên nhân đưa chúng ta đến nơi mà mình không mong muốn.
Những đối tượng được liệt kê trong những tài liệu của trường phái Phật giáo nhiều vô số kể. Mặt khác, nhiều quí vị đã từng mang ra sử dụng ròng rã cả đời của mình. Tính chất, hiệu quả thì chúng ta không cần phải bàn đến.
Ở đây CTR lại có một cách sắp xếp các đối tượng để quán tưởng dựa vào những tiêu chí khác. Nói cụ thể là CTR dựa vào tiêu chí kỹ thuật của tài liệu Vi Diệu Pháp và dựa vào tiêu chí hiệu quả của thực nghiệm. Chúng tôi xin nêu ra 3 loại đối tượng. Mong quí độc giả lưu ý để phân biệt là những đối tượng này dùng để tu định, tu chỉ, chứ không phải là tu quán.
Điều đó có nghĩa là, những đối tượng này giúp người tu thiền định, đạt được định tâm, an chỉ tâm…
Ba loại đối tượng mà chúng ta vừa đề cập ở trên đó là : mặt trăng, một bông hoa đơn giản nào đó, một viên bi có màu sắc.
Sau đây là phần lý thuyết để giải thích về loại đối tượng này:
Căn cứ vào tiêu chuẩn sắc pháp, thì những đối tượng nói trên có tính chất:
1.Vô nhân, vì nó không tương ưng, không câu hữu với các bất thiện tâm: tham, sân, si hoặc vô tham, vô sân, vô si.
2.Hữu duyên, vì sự hiện hữu chỉ mang tính chất tạm thời.
3.Hữu lậu, vì nó là đối tượng của cảnh dục giới, nó là nguồn gốc của phiền não.
4.Hữu vi, vì nó lệ thuộc ở ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Và còn nhiều yếu tố khác nữa…
Một yếu tố mà chúng ta đặc biệt phải quan tâm là yếu tố vô nhân và bản tánh sắc. Loại đối tượng này không có những yếu tố nói trên, do đó nằm ngoài cảnh định dục giới. Nói một cách khác, quán tưởng loại đối tượng này có nhiều cơ may, đưa người tu thiền định đến cảnh sơ thiền hữu sắc.



Những đối tượng quán tưởng có thể đưa hành giả đến cảnh định dục giới :

Có lẽ ai cũng biết, trường hợp thánh nữ Theresa Avila của trường phái Công giáo. Vị thánh nữ này chiêm nghiệm tượng Chúa và ít nhiều đã đưa năng lượng của con người vào bức tượng. Trường phái Mật Tông không kể là của Tây Tạng hay Trung Quốc, họ hay đưa năng lượng sinh học của bản thân mình vào bức tượng. Thậm chí người ta còn làm thao tác tôn giáo, gọi là mở nhãn cho một pho tượng. Ngoài ra còn vô số trường phái khác trên khắp thế giới, vô tình hay hữu ý, người ta gọi Phật A Di Đà là ÔNG Phật, Phật Quán Âm Tự Tại là Phật BÀ, Đức Mẹ Maria, Mẹ Kara…Nói một cách khác, các đối tượng dùng để chiêm ngiệm, để tập trung tư tưởng, để cầu xin, để quán tưởng, đều có giới tính rõ ràng, có nghĩa là nam hay nữ. Nói theo quan điểm của sắc pháp thì các đối tượng này là hữu nhân. Đặc biệt các tu sĩ Tây Tạng hay sử dụng nữ thần gọi chung là Đakini để quán tưởng.

Đứng về mặt phân tâm học thì điều này cũng chẳng có gì là lạ. Đời sống trong tử cung, trong bụng mẹ là nơi an toàn nhất. Một nơi mà chỉ có nhận và không phải cho. Việc sanh ra đời, đi ra khỏi tử cung của người mẹ, đó là thách thức kinh hoàng nhất của đời người, vì thế giới khách quan đầy rẫy những thách thức nguy hiểm, thù địch. Khi ra khỏi nơi trú ẩn an toàn nhất này, con người mang nỗi hoài hương triền miên, nhớ về một thiên đường đã đánh mất là bụng mẹ. Cũng theo phân tâm học, thì các biểu tượng tôn giáo là hệ quả của việc tranh chấp nội tâm. Chính các biểu tượng tôn giáo là một hình thức giải thoát các ẩn ức.

Căn cứ vào Vi Diệu Pháp, cũng như phân tâm học, khi chúng ta quán tưởng những vị nói trên, đặc biệt là các nữ thần như Đakini chẳng hạn, thì chắc chắn nó sẽ đưa chúng ta đến cảnh định dục giới. Lý do vì công cụ quán tưởng này có cấu tạo sắc, cấu tạo tâm, rất gần gũi với đời sống của con người.

Việc sử dụng các Mạn đà la, đưa lại hiệu quả định tâm rất cao. Nó là sản phẩm tưởng tượng của con người nên có khắp nơi trên thế giới, chứ không phải là đặc sản của Tây Tạng. Lý do các Mạn đà la tạo ra được hiệu quả định tâm rất cao vì kịch bản của nó vô cùng phức tạp, đòi hỏi người tập luyện phải chú tâm mạnh mẽ và liên tục. Do đó, theo nhận định của tác giả Alexandra David Neel, thì những tu sĩ Tây Tạng, không có tư chất thông minh, nhưng nhờ sử dụng công cụ Mạn đà la - một công cụ vô tình đáp ứng được những thao tác cơ bản cần thiết của các tiến trình tâm, đưa đến việc định tâm. Tóm lại, chúng ta có thể giải thích cụ thể như thế này: những người tu cho dù không thông minh, nhưng nếu sử dụng một công cụ quán tưởng tốt, thì việc định tâm là hệ quả tất yếu của nhân quả. Đó là một hệ quả cơ học.

Việc sử dụng tượng Phật A Di Đà, Phật Quan Âm rất phổ biến ở các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... Cách tập luyện với các đối tượng này, sẽ dẫn người tu đến cảnh định dục giới.

Theo truyền thuyết thì tiền thân của vị Phật Di Đà là một ông vua nào đó, có đến 1000 đứa con. 4 trong 1000 đứa con, hiện tại là Bồ Tát hoặc Phật, được thờ phổ biến ở các chùa Việt Nam. Cấu tạo tâm và sắc của ÔNG Phật nói trên tương ứng với cảnh Định dục giới. Nó chắc chắn không thể tương ứng với cảnh sơ thiền hữu sắc, vì ai cũng biết ở sơ thiền hữu sắc không có nam, không có nữ…Chính vì việc ngộ nhận này hay vì không hiểu rõ, nên sanh ra những cuộc tranh luận bất tận, không bao giờ kết thúc.

Tóm lại, trong phần lý thuyết của bài viết này, CTR cố gắng làm sáng tỏ về việc chọn đối tượng để tu thiền định. Việc chọn lựa là tùy theo ý thích của quí độc giả. Trên thực thế không phải tất cả mọi người đều thích tu giải thoát. Có vị cũng thích tu thiền định để có sức khỏe tốt như trên ti vi thường hướng dẫn. Những vị khác thì do chán nản cuộc sống thế gian. Một số người tu thiền định khác thì muốn tu giải thoát, nhưng thấy con đường giải thoát còn xa diệu vợi. Lực bất tòng tâm, do đó họ bằng lòng với thành quả tu thiền định của mình là vui chơi, tiêu dao ngày tháng bên cạnh Đakini tâm đầu ý hợp của mình. Nhưng lại cũng có quí vị cho là cuộc sống mang tính chất vô thường, bản chất là phiền não, nên kiên định đi tìm giải thoát, đi tìm yếu tố Santi.

CTR chỉ muốn nói đôi lời tâm sự chứ hoàn toàn không có ý làm nản lòng quí vị. Có thể một ngày nào đó, trên bước đường thiên lý đi tìm yếu tố Santi, quí vị nhận ra mình quá mỏi mệt và sẽ ứng xử như nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng đã từng làm, đó là quên đi cuộc sống tu hành đạo hạnh, an hưởng cuộc sống bên cạnh Đakini.

CTR có bị hoang tưởng khi viết ra điều này không?


Tương lai và thực tế sẽ là câu trả lời thiết thực nhất. Biết đâu đến lúc nào đó khi đụng chuyện, quí độc giả sẽ chợt nhớ ra rằng Tam Tiểu Thư đã từng nhắc quí vị điều này. Thôi thì “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”.
CTR chỉ làm công việc trình bày thực đơn, tùy quí vị lựa chọn. Nói cho cùng thì niết bàn chỉ là một trạng thái tinh thần, một trạng thái tâm lý chủ quan của từng cá nhân. Vườn địa đàng của người này chưa chắc đã là địa đàng của người khác.
Mong nhận được ý kiến đóng góp của quí độc giả.
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-ly-thuyet-1-tam-quan-trong.html