Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

本次新聞發布會(18)反範劍消極的措施(續)〜CTRCuộc họp báo (18) Tiêu Cục Xuyên Vân Kiếm pháp (tiếp theo) ~ CTR


- 譚消費:

親愛的觀眾,我很高興向大家展示您的整個觀眾評論需要。

- 靠近:讀者來信@ 6 :證券purelands

歡迎,同時,
近前者從來沒有實踐的的HSTD一致的紅點只是背誦佛教概念。人們看到你說話的方式有關佛號,訪問權限的幾個問題將是最好的教導:

1。如果酒吧,待紅點,相當於發呆?
2。如果它是等同於進口,然後當我切換到更難標題或習慣邸達,冥想的水平是塑造?例如,阿彌陀佛相應的禪定,禪定,禪修中心,慈善,或更高的一致性?
3。冥想的最高級別的非理想的想法。根據CTR的冥想水平仍然微妙的想法,而不是沒有更多的想法。如果你看到的願景阿彌陀佛和他打算問什麼未來的過去,那麼如何區分這阿彌陀佛主要還是她的腦海?換句話說, “領導通道”的噪音?
4 。你怎麼知道你正在朝著正確的方向,或者你正在期待奇蹟這個故事進口?

從這個博客中,以達到“啟蒙” ,法律主體的選擇極其重要的東西,是因為它的方式。如果他們偏離了以最快的速度,你可以離目的地。訪問該網站,可以了解HSTD (神聖的指南的話來說:仔細閱讀,精心製作的東西),但還沒有找到他們想知道的信息。 HSTD網頁實際上是非常不同的,更獨特,更優於其它網站,因為HSTD與佛教教人練習和實踐的具體方法,不僅是明星貨架副本。在工地附近的HSTD會認為以上或者如果對於那些誰想要練習可以坦率交談,教師Tibu很難回答的問題(即使它是違背了自己的看法) ,但不要哭人自己的“宗教去了就知道了。 ” CTR博客頁面,相反似乎是幫助人們“知道之前的做法。 ”在營地附近沒有遵循什麼是真正的。

玻璃

- 譚消費:

親愛的觀眾,我想,你的觀眾的意見,在這個問題上需要練習的佛教在某些學校,可能會非常多觀眾的情緒。

想要一窺佛教的一般性質,佛學禪修特別是中國移民的可變部分的概念,然後在東南亞一些國家蔓延我們需要回到歷史。事實上,人打坐在越南,不好意思聽到老師指導“的營銷”他們的新學校是嚴格正統的佛教學校,學校TT , TT最高的學校...有很多修辭,宏偉來形容學校的冥想。想了解真正受損的“市場營銷” ,我們只是回到歷史。

老子哲學往往是釋加牟尼,孔子生活的歷史時期,是盛開的時間。需要記住的細節,因為我們不是歷史學家,而是來形容這可怎麼還有人記得上述3種可以被認為是相同的歷史時期。

據認為,他的父親是中國佛教禪宗六祖惠能( 638-713 ) 。材料經常把他描述如下: “高增長創始人唐,中國佛教禪宗的做法。”其他文件表明慧能聽到金剛經文件的演講,他以“實現”的道理。他本人是作者只用硬紙板“作為一個佛” (佛自我營銷,自我真空)免費六祖壇經。他的政策, “唯一的女孩心真理,佛性知識” 。他本人是作者啟蒙教導,DC,後來轉化成該教派與許多數字不能告訴大家。

越南是一個民族的宗教佛學禪修,他的中國慧能。我們來看看一個事實:今天,有很多偉大的宗教設施, VN ,被稱為禪宗實踐的修道院是中國。民間的話,它也正是冥想100 %在中國製造的。 VN ,但沒有外國人天主教學校也來這裡學習。他們不懷疑這是不是禪釋加牟尼,但它是高了中國禪宗六祖惠能。

這所學校是釋加牟尼像冥想不?答案是,這是非常不同的。這是從理論和實踐的創始人不同。

我想設置一些標準,供大家參考受眾。

它看起來像,印度佛教的創始人釋加牟尼,對人的理解表示讚賞。有人只是一個受歡迎的素食餐廳,可以看到下面的口號:

“在生活中,最大的資產是知識和健康”
“他最大的缺點,缺乏了解”

它經常被描述為薩迦Muini :三,雙性戀,阮晉勇(主持的宗教就是要智慧) 。另一個文件中被認為是:

“生活缺乏了解,以及生活與敵人”(我好像記得,這是文件的法句經) 。大家都知道,越南領導人曾經說過:“被認為是一種無知的敵人。 ”當越南的法國殖民統治下,法國有一個非常荒謬的規則,有“源”的處罰......從世界宗教,它似乎認識不足,缺乏了解人...不歡迎。

據歷史記載,他們似乎已經慧能知識,有教育,是非常有限的。這是因為知識的局限性,已經成為一個烏托邦式的意識形態“就住腳頭腦,是佛性”......相比之下,小乘佛教是需要花時間的人誰不想實行很長一段時間。基於文檔阿昆達摩,甚至殺死後幾個令人不安的,然後在這個水平,從業者也應該增加7更多的生命。此演示的只是其中的一部分,你見過高層禪宗六祖惠能和他的中國印度釋加牟尼的深刻區別。

副主任級別的人學習的困難,是某一種宗教的基礎,他們似乎不堪重負的不朽宗教基礎。在霍爾拜釋加牟尼這個地方。他們沒有預見到的外殼是釋加牟尼,但腸道是高達中國慧能。如果你要問老師指導禪修,這些人不知道的是,他們培養中國冥想。

中國佛教禪宗的學校往往是根據兩個文件的基礎上,如下:

*評論*信用開始大乘金剛經。

CTR有時也指兩個文件。其實裡面有兩個文件的時間提前和慧能業務鍛造。作者金剛經“ (可能很多人都知道),韓國人......所以,從理論上說,中國佛教禪宗無關沉思釋加牟尼學校。

一般來說,這些材料提供一個第一本體類似於佛教。如何練習冥想,也可以說,只有店。但在文件的後半部分,我們看到的字符出現阿彌陀佛。任何一個健康的認識論,它可以檢測色彩中國。中國佛教混合與兩個當地的學校,如道教和儒教。

親愛的觀眾附近,

上面的描述中,我有一個學校的冥想禪禪中國和中國人在越南的圖片。一旦你有這方面的知識,我們並不感到驚訝,為什麼這麼多的學校在越南的冥想練習,表面上是佛教徒,但事實是,中國禪宗。

帶來的客觀性,我將描述一個不同的學校,該學校的Vo六在越南。這所學校是真正融合了中國佛教禪宗和道家的老子。因此,校名設置為VO VI (其中道家)的理論解釋這所學校,一個女孩擁有哲學學士學位。因此,提出的理論相當詳細和複雜的邏輯...我很抱歉,這所學校的追隨者,在這裡我只說真話揭露。

一旦你理解了上面的問題,觀眾需要的話,可以回答四個問題:你帶出了觀眾,也不是什麼難事。另一方面,我們同意與對方輕鬆。在這裡,我想發表評論我要每個部分,它給你的觀眾。

- 靠近:
1。如果酒吧,待紅點,相當於發呆?

- 譚消費:
親愛的卷受眾。

對一定對象的重點,不一定是紅點,很多學校是一種流行的技術。它的目的是使人類的心靈暫時停滯不前。該理論認為,很多人(包括你和你的聽眾) 。但在現實中,我做了我的心靜止的合理與否,是一個不同的故事。因此,待向阿昆達摩,如在下面詳細描述:

*專注於一個單一的對象,目的是尋找一個單一的對象,所謂的範圍。 *盡量保持這個對象(單個字符) ,以免失去這個對象,被稱為四。

如果你確實達到這種狀態,取決於強度,取決於個人的​​,是有希望的心理就站住,它被稱為一個心靈。在實驗室中,想到的是,這種情況下需要時間,從20分鐘到2小時。

進入具體的寫法是“ ” , “ ”的精神狀態,站著不動,也被稱為一心,和操縱技術遍歷由中心:遊戲,四。因此,這樣的問題:受泉紅點,它相當於恍惚或不,我的答复如下:這也可以等於,可能不兼容等價的。原則上,這種技術是“集中在一個單一的對象”。問題是,我們實際完成的技術任務是:四,一心與否。總之,這是一個技術操作,大部分學校的冥想,催眠,瑜伽...... ,使心臟停滯不前。

- 靠近:
2。如果它是等同於進口,然後當我切換到更難標題或習慣邸達,冥想的水平是塑造?例如,阿彌陀佛相應的禪定,禪定,禪修中心,慈善,或更高的一致性?

- 譚消費:
如果我們使用的標題阿彌陀佛(像所有其他正常人) ,是一種手段,一種工具,那麼還有什麼可說的。但這裡是扭曲,但,鍛造的佛教學校或利用無知的信徒,將人們帶入一個目的,他們的願望。

我想這個問題拆分成兩部分:

A.如上所述,如果我們使用阿彌陀佛是一個課題冥想,使心靈停滯不前,那麼這個對象以及數百成千上萬的其他對象,只是作為一種工具,操縱技術來實現一個心靈。

使用精神的高潮:佛,菩薩,聖是西藏密宗曼荼羅。一位法國作家(使觀眾越多,知道的)是大衛·尼爾,誰住在西藏的多年。他們描述了她作為一個知識庫的佛教生活,她真的很深奧西藏的宗教。她說了一句話,值得重視的是: “許多藏族僧人有沒有資格智能,但這種做法是成功的,”他們已經達到了一定的水平,他們的生活孤獨,在杯中,內政部同意他們享受生活的空行母的水果他的冥想!親愛的觀眾。

曼陀羅是藏族風格的巔峰之作熟練阿彌陀佛。但它是高於嫻熟,因為這是一個更複雜的場景的情況下。受過訓練的人要記住,或者更確切地說,專注於以下情形:

*雇主真言真言*刊物*注*電源

誠如上文所述,這種情況下是較劇,但一次培訓必須關注的幾個問題。過度複雜的問題(上述4因素)培訓的心靈戲劇,重點是超載。無形的,他們失去了知覺......他們進入機械的方式,而不是因為他們想。這可以被認為是合理的解釋。這解釋了為什麼藏族僧人進入,但沒有資格智能。

換句話說,唯一的“重點”已經照本宣科一個聰明機靈的方式。它做了一個臨時的人會自動地,不管需要一個聰明的投資。

B.中國佛教(包括越南) ,一般學校的消息說,在阿彌陀佛的名字(他們也加強的信念,告訴佛陀說) ,認為是佛阿彌陀佛作為最終目標,並從那裡忠實,祈禱麵包車的肩膀,男子提出,對象是:佛,法,僧......正是在這個階段,中國佛教一般,尤其是東南亞,包括越南,從小乘分開...這是我們找到的,是明確清晰的最後部分的的大乘材料卷評論。在本文檔結尾,馬明菩薩,釋加牟尼,使再生,菩薩說,我想要什麼。

你的觀眾近!

我希望最後陳述,阿彌陀佛,酒吧,如果該對象被視為一個尊敬的朋友,而不是作為一個佛,和尚可以起飛坐禪朋友囊。

- 靠近:
3。冥想的最高級別的非理想的想法。根據CTR的冥想水平仍然微妙的想法,而不是沒有更多的想法。如果你看到的願景阿彌陀佛和他打算問什麼未來的過去,那麼如何區分這阿彌陀佛主要還是她的腦海?換句話說, “領導通道”的噪音?

- 譚消費:

親愛的觀眾需要的話,我是在CTR組發言人,跨範劍法語負。個人以及負XVKP CTR組,唯一的工作就是學習,學習,總結...希望連字符,票據的一部分,是一個有點說明佛教思想小乘。我問先生,我所提出的不一定是真實的,但希望它認為最好的釋加牟尼,但你可以做到這一點。我期待著你的未來觀眾,同樣的觀眾,大家明白,我只是一個連字符,但這種做法沒有任何隱私。

根據這些文件阿毗達摩,皮皮蔣家,是禪無色界最高。在這種境界中,元素色,色雖然是最微妙的,完全消除,不再存在。具體來說,冥想練習者經過不懈的努力,孜孜不倦,曾留下他們的原油境界慈善有機卓越。皮皮思想觀念,思想幾乎消失了,那麼造成觀眾的問題,你的境界,絕對不能做。

由於不再有任何一絲的壁式充電器,阿彌陀佛的異象怎麼看?

見此異象是矛盾的。我重申這個領域有沒有死路,有慾望,慾望......然後眼睛看到它必須是真的很有趣!

對不起太毛的話。這是極為荒謬的。另一方面,即使是佛真的東西,我們不能看到的。佛的原因,他們經歷HUU CANH關於慾望和無形的。推測,他們是我們願意看到的,他們沒有給我們胚囊看到。

接下來,你必須質疑的觀眾, “如果你看到阿彌陀佛的異象,他打算問過去到未來。 ”親愛的,你知道,附近的觀眾,觀眾在皮皮蔣家的境界,一般無形的冥想風景,冥想練習者尋求淨化,包括思想,觀念,想扔掉。尤其是當皮皮景觀的想法關於思想,冥想練習者出售絕對的想法,即使是最細微的想法,我怎麼操縱的想法:“我過去,現在和未來,要問的東西。 “操縱認為這不能做,是因為那裡的想法實施。我們再次看到,悖論,矛盾內在的問題。

不會有太多主觀的或沒有,但他們都不敢給這個問題的,不知道冥想的味道。因此,他們所描述的,你不知道的音符。

在該領域中,它也打開色調,流行的被稱為第三眼。這是只有一個字來形容的狀態,實體的工具,在不同的領域,以獲得對客觀世界。為了說明問題更容易理解,我想用言語來形容是非常受歡迎如下:

了。人的眼睛,或動物的材料,請參閱我們所看到的(所謂的全物理因素)的材料。大家注意以下之一,它是了解什麼是物理眼看到的,我們必須有一個統一的系統的邏輯形態。因為不明白這個問題,所以很多人過於開放標籤,並觀看視頻短片。這是毫不奇怪,像感性的客觀物質世界,我們必須滿足兩個要素:

1。物理感官(主題)
2。物理世界(對象) 。

主體與客體之間的橋樑,這是邏輯形態是一個工具,連字符。這是不可缺少的元素。

二。只要世界舞台上球體移動單獨的的實體表格及其他客觀世界的結構有很大關係。

物理狀態:硬( solide ) ,重量(質量) ,重量(重量)的特點,可以通過觸摸感知,這是不再可用。充電的性質發生了變化,因為觸摸似乎並不存在。所以會看到景觀領域有很大的不同。另一方面,一種別樣的邏輯形態,作為一種工具來認識客觀世界,不喜歡,我們使用的邏輯形態在景觀領域了。

我只會提出了兩個領域象徵,希望你們每個人都認為你已經打開眼睛週二,所以仔細想想,你已經錯過了,這片古老而這是真正了解這個錯誤是禪修的災難。它是沃土進口狀態,我們稱之為禮貌地率先通道。我把我的自我神話的生活。

有許多不同的形式,說,你可以不存在。我希望以後這樣的機會,所以你會呈現觀眾。

- 靠近:
4 。你怎麼知道你正在朝著正確的方向,或者你正在期待奇蹟這個故事進口?

- 譚消費:

這是釋加牟尼自己的問題,還必須載。釋加牟尼和他人,我們可以提到,如帕坦伽利,老子,孔子的宗教生活...是最實用的答案。上面提到的人的個人生活所帶來的問題,你的觀眾是真正的答案。北極星包括三個神仙:

*不朽的真理:無常,無私,痛苦。
*不朽之行:八正道。
冥想不朽的做法:性別,濃度和智慧。

我想這三個語句是在正確的道路或不知道你是一個根本措施。我認為這是北極星你提出,如什麼是正確的。

我衷心感謝觀眾需要的話,你的整個觀眾。譚國信的手在他的額頭上,恭恭敬敬地迎接觀眾的新聞發布會後。







Cuộc họp báo (18) Tiêu Cục Xuyên Vân Kiếm pháp (tiếp theo) ~ CTR
- Tam Tiểu Thư:

Kính thưa quý cử tọa, em xin hân hạnh giới thiệu toàn bộ ý kiến của quý cử tọa Cận Định.

- Cận định: @ Lá thư từ độc giả 6: THỰC CHỨNG CÕI TỊNH ĐỘ

Chào cả nhà,
Cận định trước đây chưa bao giờ tu theo niệm Phật quán chấm đỏ của HSTD mà chỉ niệm Phật thôi. Nhân thấy các bạn bàn luận về cách tu niệm Phật, cận định xin phép có vài thắc mắc mong được chỉ giáo:

1. Nếu quán chấm đỏ mà ra được đề mục, thì nó có tương đương với trạng thái nhập định không?
2. Nếu nó tương đương nhập định, thì khi mình chuyển qua các đề mục khó hơn hoặc quán Di Đà, thì các mức độ thiền định được phân chia ra sao? thí dụ quán ra A Di Đà thì tương ứng với sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền hay cao hơn nữa?
3. Mức độ cao nhất của bậc thiền định là phi tưởng phi phi tưởng. Theo CTR thì ở bậc thiền này vẫn còn những tư tưởng vi tế chứ không phải là không có tư tưởng nữa. Nếu nhìn thấy linh ảnh A Di Đà rồi mình tác ý hỏi quá khứ vị lai gì đó, thì làm thế nào để phân biệt đó là ý của A Di Đà hay chính là ý của mình? nói cách khác là việc "dẫn kênh" bị nhiễu?
4. Làm sao để biết mình đang tiến đúng hướng hay mình đang bị nhập do chuyện mong cầu thần thông này?

Từ ngày vô blog này, cận định "ngộ" ra rằng chuyện chọn pháp môn tu cực kỳ quan trọng, vì nó là con đường. Nếu đã đi lạc thì càng đi nhanh càng xa rời đích đến. Cận định có tìm hiểu trang web HSTD (theo lời hướng dẫn của các thánh tăng: đọc cho kỹ, làm cho kỹ gì đó) nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy thông tin mà mình muốn biết. Trang web HSTD thực ra rất là khác biệt, độc đáo hơn và hay hơn các trang web phật pháp khác vì HSTD có dạy người ta thực hành và có phương pháp tu tập cụ thể, chứ không chỉ là sao kinh chép kệ. Cận định nghĩ trang web HSTD sẽ còn hay hơn nữa nếu để cho những ai muốn tu tập có thể trao đổi thẳng thắn, thày Tibu chịu khó giải đáp những thắc mắc (cho dù nó trái với quan điểm của mình), chứ đừng kêu người ta cứ "tu đi rồi sẽ biết". Trang CTR blog thì dường như làm ngược lại nên giúp người ta "biết rồi mới tu". Cận định chẳng theo phe ai mà theo cái gì ĐÚNG.

Kính

- Tam Tiểu Thư:

Kính thưa quý cử tọa, em thiết nghĩ, ý kiến của quý cử tọa Cận Định về vấn đề tu hành theo trường phái Phật giáo nào đó, có thể là tâm trạng của rất nhiều quý cử tọa.

Muốn có một cái nhìn về Phật Giáo mang tính chất tổng quát cao, có khái niệm phần nào về những biến thể của Thiền Định Phật Giáo khi nhập cư vào Trung Quốc nói riêng, sau đó phát tán ở một số quốc gia Đông Nam Á, chúng ta cần đi ngược dòng lịch sử. Thật vậy, bất cứ người nào theo tu Thiền Định ở tại Việt Nam, cũng cảm thấy bối rối khi nghe các vị Thầy hướng dẫn "tiếp thị" trường phái của mình mới đúng là trường phái chính thống của Phật Giáo, trường phái Đại Thừa, trường phái Tối Thượng Thừa … Còn rất nhiều ngôn từ hoa mỹ, hoành tráng để mô tả về các trường phái tu Thiền. Muốn hiểu được thực hư của những "tiếp thị" này, chúng ta chỉ cần đi ngược dòng lịch sử.

Bộ môn triết học thường mô tả giai đoạn lịch sử thời điểm ra đời của Sakya Muni, Khổng Tử, Lão Tử là thời gian trăm hoa đua nở. Không cần phải ghi nhớ quá chi tiết, vì chúng ta không phải là sử gia, nhưng với cách mô tả này thì ai cũng có thể nhớ là 3 vị nói trên đều có thể coi là cùng một thời kỳ lịch sử.

Người ta cho rằng ngài Huệ Năng là cha đẻ ra Thiền Tông của Trung Quốc (638 - 713). Các tài liệu thường mô tả ngài như sau: "Cao Tăng đời Đường, người sáng lập thực tế Thiền Tông Phật Giáo Trung Quốc". Tài liệu khác cho biết khi Huệ Năng nghe thuyết giảng về tài liệu kinh Kim Cang, thì Ngài "ngộ" được chân lý. Chính ngài là tác giả của bộ Pháp Bảo Đàn Kinh với tông chỉ "Tự Tính là Phật" (tự tính thị Phật, tự tính chân không). Ngài chủ trương "Trực Chỉ Chân Tâm, Kiến Tánh Thành Phật". Chính ngài là tác giả của pháp môn Đốn Ngộ, sau này biến thể thành các hệ phái với số lượng nhiều không thể kể hết.

Việt Nam là một trong những quốc gia tu Thiền Định theo Phật Giáo Trung Quốc của ngài Huệ Năng. Chúng ta phải nhìn ra một sự thật: Ngày hôm nay có rất nhiều cơ sở Tôn Giáo to lớn ở tại VN, được gọi là Thiền Viện chính là nơi tu Thiền Tông của Trung Quốc. Nói một cách dân giã, chính xác đó là Thiền Định 100% made in China. Không những người VN, người nước ngoài mà cả trường phái Công Giáo cũng đến đây để học tập. Họ không ngờ đây không phải là Thiền Tông của Sakya Muni, mà nó là Thiền Tông của cao tăng Huệ Năng Trung Quốc.

Trường phái này có giống với Thiền Định của Sakya Muni không? Câu trả lời nó là rất khác biệt. Nó khác hẳn từ người sáng lập đến lý thuyết, thực hành.

Em xin nêu ra một vài tiêu chí để quý cử tọa tham khảo.

Dường như Sakya Muni, người thành lập ra trường phái Phật Giáo Ấn Độ, đánh giá rất cao về sự hiểu biết của con người. Ai đó chỉ cần vào một tiệm ăn chay bình dân đều có thể thấy những khẩu hiệu sau đây:

"Tài sản lớn nhất trong đời, là sự hiểu biết và sức khỏe"
"Thiếu sót lớn nhất trong đời, là thiếu hiểu biết"

Người ta thường mô tả ngài Sakya Muini là: Trí, Bi, Dũng (theo tôn giáo chữ Trí được hiểu là, sự minh triết). Một tài liệu khác thì cho là:

"Sống với người thiếu hiểu biết, cũng như sống với kẻ thù" (em nhớ hình như câu này là của tài liệu Pháp Cú). Ai cũng biết một lãnh đạo Việt Nam từng nói "coi sự ngu dốt là một thứ giặc". Khi Việt Nam còn dưới sự đô hộ của người Pháp, người Pháp có một điều luật khá tức cười, đó là hình phạt về tội "Ngu" … Từ tôn giáo cho đến thế gian, dường như sự thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết … không được người ta đón chào.

Theo lịch sử, thì ngài Huệ Năng hình như có một kiến thức, có một nền học vấn, cực kỳ giới hạn. Phải chăng vì sự giới hạn của kiến thức, đã nảy sinh ra tư tưởng không tưởng là "trực chỉ Chân Tâm, kiến tánh thành Phật" … Ngược lại, Phật Giáo Nguyên Thủy thì cho là người muốn tu tập phải cần có những thời gian rất dài. Căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp, kể cả khi đã diệt được một vài Phiền Não nào đó, thì ở cấp độ này, còn phải tu thêm 7 kiếp nữa. Chỉ mới phần trình bày này, quý vị đã thấy sự khác biệt quá sâu sắc giữa Thiền Tông của Cao Tăng Huệ Năng người Trung Quốc và Ngài Sakya Muni người Ấn Độ.

Cái khó khăn cho một ai đó muốn tầm sư học đạo, là khi đến một cơ sở Tôn Giáo nào đó, họ bị choáng ngợp bởi vẻ hoành tráng của cơ sở Tôn Giáo đó. Ở Chánh Điện của những nơi này có thờ phụng ngài Sakya Muni. Họ đâu có ngờ rằng vỏ ngoài là Sakya Muni, nhưng ruột lại là Cao Tăng Trung Quốc Huệ Năng. Nếu có hỏi thăm những vị Thầy hướng dẫn về việc tu Thiền Định, thì chính những vị này cũng không biết là họ đang tu Thiền Định của Trung Quốc.

Trường phái Thiền Tông của Trung Quốc thường dựa vào cơ sở của hai tài liệu kể sau:

* Đại Thừa Khởi Tín Luận * Kinh Kim Cang.

CTR cũng đã đôi lần đề cập đến hai tài liệu này. Thực sự hai tài liệu này có trước thời gian ngài Huệ Năng và đều là Kinh Ngụy Tạo. Tác giả Kinh Kim Cang (có lẽ nhiều quý vị cũng biết), là những người Hàn Quốc … Do đó nói về mặt lý thuyết, thì trường phái Thiền Tông Trung Quốc, chẳng liên quan gì tới Thiền Định của Sakya Muni.

Nói chung, những tài liệu này đầu tiên đưa ra một Bản Thể Luận na ná giống với Phật Giáo. Cách tu tập cũng nói tới Thiền Định, Chỉ, Quán. Nhưng ở những phần sau của tài liệu thì chúng ta thấy nhân vật A Di Đà xuất hiện. Bất cứ ai có một tri thức luận lành mạnh, đều có thể phát hiện ra màu sắc của Trung Quốc trong đó. Phật Giáo Trung Quốc được pha trộn với hai trường phái địa phương, đó là Lão Giáo và Khổng Giáo.

Kính thưa quý cử tọa Cận Định,

Phần trên em có mô tả một bức tranh tổng thể về Thiền Định của trường phái Thiền Tông Trung Quốc và Thiền Tông Trung Quốc ở tại Việt Nam. Một khi có kiến thức này, thì chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, là tại sao có nhiều trường phái tu Thiền Định ở tại Việt Nam, bề ngoài là Phật Giáo, nhưng sự thật là Thiền Tông Trung Quốc.

Để mang tính khách quan, em xin mô tả một trường phái khác; đó là Trường phái Vô Vi ở Việt Nam. Trường phái này thực sự là một sự pha trộn của Thiền Tông Trung Quốc và Lão Giáo của Lão Tử. Do đó, tên trường phái được đặt là Vô Vi (theo từ ngữ của đạo Lão mà ra) Người thuyết minh về lý thuyết cho trường phái này, là một cô gái có bằng Cử Nhân về Triết Học. Do đó, lý thuyết được trình bày khá cặn kẽ và tinh vi, logic … Em xin lỗi những môn đồ của trường phái này, ở đây em chỉ nói lên sự thật không che đậy.

Một khi hiểu được những vấn đề nêu trên, thì quí cử tọa Cận Định, có thể tự giải đáp bốn vấn đề mà quí cử tọa đưa ra, không có gì là khó khăn cả. Mặt khác, chúng ta dễ thống nhất với nhau. Sau đây, em xin đóng góp ý kiến với từng đề mục, mà quí cử tọa đưa ra.

- Cận định:
1. Nếu quán chấm đỏ mà ra được đề mục, thì nó có tương đương với trạng thái nhập định không?

- Tam Tiểu Thư:
Kính thưa quý cử tọa Cận Định.

Việc Chú Tâm vào một đối tượng nào đó, không nhất thiết là một chấm đỏ, là một kỹ thuật phổ thông của nhiều trường phái. Nó nhằm mục đích làm tâm lý con người tạm thời đứng im. Lý thuyết này thì có rất nhiều người biết (trong đó có em cũng như quý cử tọa). Nhưng thực tế, mình có làm cho tâm lý của mình đứng im được hay không, lại là một chuyện khác. Do đó, bộ môn Vi Diệu Pháp, mô tả chi tiết như sau:

* Chú tâm vào một vật duy nhất, tìm kiếm Đối Tượng là một vật duy nhất, gọi là Tầm. * Cố giữ gìn Đối Tượng này (một vật duy nhất) để không làm mất đi Đối Tượng này, gọi là Tứ.

Nếu thực sự đạt được trạng thái này, tùy theo cường độ, tùy từng cá nhân, thì có hy vọng tâm lý sẽ đứng im, người ta gọi là Nhất Tâm. Ở các phòng thí nghiệm thì người ta cho là, diễn tiến này đòi hỏi thời gian, từ 20 phút đến 2 giờ.

Nhập Định cụ thể là có từ ngữ "Định", và "Định" có nghĩa là trạng thái Tâm đứng im, còn gọi là Nhất Tâm, và thao tác kỹ thuật về cấu tạo Tâm phải đi qua: Tầm, Tứ. Do đó, với câu hỏi: Quán chấm đỏ mà ra được đề mục, thì có tương đương với trạng thái Nhập Định hay không, thì câu trả lời của em như sau: Việc này cũng có thể tương đương, cũng có thể không tương đương. Trên nguyên tắc thì đây là kỹ thuật: "Chú Tâm vào một vật duy nhất". Vấn đề đặt ra là, chúng ta có thực sự thực hiện được các thao tác kỹ thuật là: Tầm, Tứ, Nhất Tâm hay không. Nói tóm lại, đây là một thao tác kỹ thuật của hầu hết các trường phái Thiền Định, Thôi Miên, Yoga … nhằm làm cho Tâm đứng im.

- Cận định:
2. Nếu nó tương đương nhập định, thì khi mình chuyển qua các đề mục khó hơn hoặc quán Di Đà, thì các mức độ thiền định được phân chia ra sao? thí dụ quán ra A Di Đà thì tương ứng với sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền hay cao hơn nữa?

- Tam Tiểu Thư:
Nếu chúng ta sử dụng đề mục là vị Phật A Di Đà (như mọi đề mục bình thường khác), là một phương tiện, là một công cụ, thì cũng chẳng có gì để nói. Nhưng chính đây là khúc quanh, mà các trường phái Phật Giáo Ngụy Tạo hay lợi dụng việc không hiểu biết của các tín đồ, để đưa người ta đến một mục đích mà họ mong muốn.

Em xin tách vấn đề này làm hai phần:

A. Như phần trên đã nói, nếu chúng ta sử dụng vị Phật A Di Đà là một đề mục để quán tưởng, làm cho Tâm đứng im, thì đối tượng này cũng như trăm ngàn đối tượng khác, chỉ là một công cụ trong thao tác kỹ thuật nhằm đạt được Nhất Tâm.

Đỉnh cao của việc sử dụng các Thần Linh: Phật, Bồ Tát, Thần Thánh … chính là các Mạn đà la của trường phái Mật Giáo Tây Tạng. Một tác giả người Pháp (mà chắc nhiều quí cử tọa có biết) là David Neel; người đã sống nhiều năm ở Tây Tạng. Người ta mô tả kiến thức của bà là một thư viện sống về Phật Giáo và bà thực sự có tu Mật Giáo Tây Tạng. Bà từng đưa ra một nhận xét, rất đáng cho người ta quan tâm: "Nhiều tu sĩ Tây Tạng không có tư chất thông minh, nhưng tu hành có những thành công", họ có đạt được một trình độ nào đó, họ sống một mình, trong các cái Cốc, cái Thất … Họ bằng lòng hưởng thành quả của Thiền Định của mình là việc sống với các Dakini ! Kính thưa quý cử tọa.

Mạn đà la của Tây Tạng chính là đỉnh cao của dạng Quán Tưởng kiểu Phật A di Đà. Nhưng nó cao hơn việc Quán Tưởng này, vì đây là một kịch bản nhiều tình tiết khá phức tạp. Một người tập luyện phải nhớ, hay đúng hơn là phải chú Tâm vào kịch bản sau đây:

* Vị Chủ Chân Ngôn * Chân Ngôn * Ấn Chú * Công Năng

Như phần trên đã trình bày, kịch bản này có nhiều màn kịch, mà người tập luyện phải chú ý vào nhiều vấn đề một lúc. Việc chú Tâm vào quá nhiều vấn đề phức tạp (4 yếu tố kể trên) trong nhiều màn kịch, làm cho tâm trí của người tập luyện bị quá tải. Vô hình chung, họ mất đi ý thức … Họ Nhập Định một cách cơ học chứ không phải do họ muốn. Đó là cách giải thích có thể coi là hợp lý. Nó lý giải tại sao các tu sĩ Tây Tạng nhập định được nhưng không có tư chất thông minh.

Nói một cách khác, việc "Chú Tâm vào vật duy nhất" đã được kịch bản hóa một cách thông minh và khéo léo. Nó đã làm cho con người Định Tâm một cách tự động, không đòi hỏi một tư chất thông minh.

B. Những trường phái Phật Giáo Trung Quốc nói chung (bao gồm tại Việt Nam), nói rằng phải tin vào một vị Phật tên là A Di Đà (họ còn củng cố niềm tin bằng cách bảo đó là lời Phật nói), coi vị Phật Di Đà như là một mục đích tối hậu, rồi từ đây bảo các tín đồ, phải cầu xin van vái, dâng lễ vật, cho các đối tượng là: Phật, Pháp, Tăng…Chính ở giai đoạn này, Phật giáo Trung Quốc nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng, trong đó có Việt Nam, tách ra khỏi Phật giáo nguyên thủy… Điều này chúng ta tìm thấy, được minh thị rõ ràng, ở phần cuối cùng của tài liệu Đại Thừa Khởi Tín Luận. Ở đoạn cuối của tài liệu này, một vị Mã Minh Bồ Tát nào đó, làm cho Sakya Muni phải tái sinh, để nói những điều Mã Minh Bồ Tát muốn.

Quý cử tọa Cận Định!

Em hy vọng với phần trình bày vừa rồi, thì việc quán A Di Đà, nếu được coi như một đối tượng Hữu Sắc, chứ không phải với tư cách một vị Phật, thì có thể đưa người tu Thiền Định đến cảnh Tứ Thiền Hữu Sắc.

- Cận định:
3. Mức độ cao nhất của bậc thiền định là phi tưởng phi phi tưởng. Theo CTR thì ở bậc thiền này vẫn còn những tư tưởng vi tế chứ không phải là không có tư tưởng nữa. Nếu nhìn thấy linh ảnh A Di Đà rồi mình tác ý hỏi quá khứ vị lai gì đó, thì làm thế nào để phân biệt đó là ý của A Di Đà hay chính là ý của mình? nói cách khác là việc "dẫn kênh" bị nhiễu?

- Tam Tiểu Thư:

Kính thưa quý cử tọa Cận Định, em là người phát ngôn của nhóm CTR, tiêu cục Xuyên Vân Kiếm Pháp. Cá nhân tiêu cục XVKP cũng như nhóm CTR, chỉ làm công việc là tìm hiểu, khảo cứu, đúc kết … với hy vọng làm một chiếc gạch nối, thuyết minh được một phần nào, minh họa được một phần nào của tư tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy. Em xin thưa, những điều em trình bày chưa chắc đã là đúng; mà chỉ hy vọng nó gần với tư tưởng của ngài Sakya Muni nhất, mà em có thể làm được. Em rất mong sau này quý cử tọa, cùng như toàn thể quý cử tọa, hiểu cho, em chỉ là chiếc gạch nối, chứ chẳng có môn pháp môn riêng tư nào cả.

Căn cứ vào những tài liệu Vi Diệu Pháp, thì Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, là Cảnh Giới Thiền Định Vô Sắc cao nhất. Ở Cảnh Giới này, các yếu tố Sắc, dù là những Sắc vi tế nhất, đã hoàn toàn triệt tiêu, không còn hiện hữu. Cụ thể là, người tu Thiền Định sau những nổ lực không ngừng nghỉ, không mệt mỏi, đã bỏ lại sau lưng mình cảnh giới thô thiển Tứ Thiền Hữu Sắc. Ở cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, tư tưởng gần như không còn nữa, thì vấn đề mà quý cử tọa đặt ra, hoàn toàn không thể thực hiện được.

Vì không còn dấu vết nào của Sắc Tướng, thì làm sao nhìn thấy linh ảnh A Di Đà?

Việc nhìn thấy linh ảnh là mâu thuẫn. Em xin nhắc lại Cảnh Giới này không có Sắc, mà lại có mắt là Sắc, rồi lại nhìn thấy Sắc … thì phải bảo thực sự là tức cười !

Em xin lỗi đã dùng từ ngữ quá thô thiển. Điều này cực kỳ phi lý. Mặt khác, kể cả thực sự có một vị Phật nào đó thì chúng ta cũng không thể nhìn thấy. Lý do là để thành vị Phật, thì họ đã đi qua các Cảnh Giới Hữu Sắc cũng như Vô Sắc. Đặt giả thuyết là họ có thiện chí muốn chúng ta nhìn thấy, thì bản thân họ cũng chẳng có Sắc để cho chúng ta nhìn thấy.

Tiếp đến quí cử tọa có đặt vấn đề "Nếu nhìn thấy linh ảnh A Di Đà, rồi mình tác ý hỏi quá khứ vị lai". Kính thưa quí cử tọa Cận Định, chính quý cử tọa biết, ở Cảnh Giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nói chung ở Cảnh Thiền Vô Sắc, người tu Thiền Định tìm cách thanh lọc, kể cả tư tưởng, các khái niệm, đều muốn vứt bỏ. Nhất là khi ở Cảnh Giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, người tu Thiền Định muốn vứt bỏ một cách tuyệt đối các tư tưởng, kể cả những tư tưởng vi tế nhất, thì làm sao mình làm được các thao tác tư tưởng là "Mình tác ý hỏi quá khứ vị lai gì đó". Thao tác tư tưởng này không thể thực hiện được, vì có tư tưởng đâu mà thực hiện. Lại một lần nữa chúng ta thấy, sự nghịch lý, mâu thuẫn nội tại của vấn đề.

Không biết có quá chủ quan hay không, chứ em e ngại là những người đưa ra vấn đề này, chưa biết mùi vị thực sự của Thiền Định. Do đó họ đã mô tả, thuyết minh những điều mà mình không biết.

Ở Cảnh Giới nào người ta cũng mở Huệ, bình dân gọi là con mắt thứ 3. Đây chỉ là một từ ngữ để mô tả một trạng thái, một công cụ của các Thực Thể ở các Cảnh Giới khác nhau, để tiếp thu thế giới khách quan. Để minh họa vấn đề cho dễ hiểu, em xin mô tả bằng những từ ngữ hết sức là bình dân như sau:

a. Con mắt vật chất của con người, hay các thú vật, nhìn thấy các vật chất mà chúng ta đang thấy (tạm gọi là vật chất đầy đủ các yếu tố). Một điều sau đây mà chúng ta phải quan tâm; đó là để hiểu được những điều đang thấy do con mắt vật chất, chúng ta phải có một hệ thống nhất quán về Luận Lý Hình Thức. Chính vì không hiểu vấn đề này, do đó sanh ra quá nhiều người mở Nhãn, và nhìn thấy các video clip. Người ta không ngờ rằng, muốn tri giác thế giới khách quan vật chất, chúng ta phải hội đủ hai yếu tố:

1. Giác quan vật chất (Chủ Thể) và
2. Thế giới vật chất (Đối Tượng).

Giữa Chủ Thể và Đối Tượng có một công cụ gạch nối như một chiếc cầu; đó là Luận Lý Hình Thức. Đây là yếu tố không thể thiếu được.

b. Chỉ tiến lên đến cảnh giới Định Dục Giới thôi, thì cấu tạo Sắc của các Thực Thể và thế giới khách quan đã khác đi rất nhiều.

Thể trạng: cứng (Solide), khối lượng (mass), trọng lượng (Weight) … là những đặc tính mà có thể tri giác bằng xúc giác, nay không còn nữa. Tính chất Bản Thể Sắc đã thay đổi, vì xúc giác dường như không còn hiện hữu. Do đó việc Thấy Biết sẽ khác với cảnh Dục Giới rất nhiều. Mặt khác, một loại Luận Lý Hình Thức khác, là một công cụ để hiểu được thế giới khách quan, không còn giống như Luận Lý Hình Thức mà chúng ta đang sử dụng ở cảnh Dục Giới nữa.

Em chỉ xin nêu ra hai Cảnh Giới có tính cách tượng trưng, để mong những quý vị nào từng cho rằng mình đã mở Con Mắt Thứ 3, nên thận trọng nghĩ lại về những gì mình đã lỡ biết xưa nay và cho nó là có thật … Sự hiểu biết lầm lẫn này là một thảm họa cho người tu Thiền Định. Nó là chính là mảnh đất màu mỡ cho tình trạng bị Nhập; mà chúng ta gọi một cách lịch sự là dẫn kênh. Tự mình đưa mình đến một cuộc sống Hoang Tưởng.

Còn rất nhiều dạng thấy biết khác, em chưa thể trình bày hết được. Em hy vọng sau này có cơ hội, sẽ trình bày hầu quí cử tọa.

- Cận định:
4. Làm sao để biết mình đang tiến đúng hướng hay mình đang bị nhập do chuyện mong cầu thần thông này?

- Tam Tiểu Thư:

Đây là câu hỏi mà chính bản thân ngài Sakya Muni cũng phải đặt ra. Cuộc đời tu hành của Sakya Muni và những người khác mà chúng ta có thể kể đến như: Patanjali, Lão Tử, Khổng Tử ... là đáp án thực tế nhất. Chính cuộc đời của bản thân những người kể trên là câu trả lời thực tế cho câu hỏi mà quý cử tọa đã đặt ra. Kim chỉ nam gồm có ba điều bất tử:

* Chân lý bất tử: Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Não.
* Con đường bất tử: Bát Chánh Đạo.
* Công thức tu Thiền Định bất tử: Giới, Định, Huệ.

Em thiết nghĩ ba phát biểu cơ bản này chính là cái thước đo để biết mình có đi đúng đường hay không. Em nghĩ đây là ngôi sao Bắc Đẩu mà quý vị đã nêu ra; đó là theo cái gì ĐÚNG.

Em xin chân thành cảm ơn quý cử tọa Cận Định, cùng toàn thể quý cử tọa. Tam Tiểu Thư chắp tay lên trước trán, kính cẩn chào các cử tọa sau buổi họp báo.