這篇文章的目的是提供一些技巧和一些理論(不可避免的)希望進入的人,這麼多不同的用途,無論學校。這篇文章是基於很多的基礎上:拉賈瑜伽學院,佛教學校,學校的催眠治療...和實踐經驗的人,誰寫了這篇文章。
我們常說,學校有沒有其他。但實際上,這些學校使用這些技術基本上是相同的。在日常生活中,人們可以看到,有許多人進入狀態類似於被動。但是,這取決於你如何定義什麼是三昧。
在這篇文章中,我們進入禁區的球。禪定是多有機卓越。技術進入這裡純粹的技術切換從一個頭腦正常的人站在原地,也被稱為只有一個中心。在這種狀態下,冥想本身顯然發現我有很多人...
有類似的現象似乎被動地進入:當音樂劇太興奮了,它也可以被倒塌。成癮性藥物,安眠藥,催眠,降神,瀕臨死亡...這些藥物可以讓人暫時失去意識。在刑事調查中,功能強大的投影機光源的目的是在審問人失去意識,失去說謊的能力,真實的記憶從潛意識誘發。對象誘導催眠看看她的眼睛,看著一個小光源,看東西已經提前做好準備類似的目的,臨時對象是失去意識。在戰爭期間,人們使用的工具非常大的聲音,散發出極其難聞的氣味,使敵方的士兵失去了知覺,甚至離家出走。拳擊手需要的方向,同時也反對的尖叫“ KIAI ”尖叫比賽。
觀測的現象,並試圖找出這些現象之間的關係,我們可以做一個陳述的總體目標規則的性質。那就是:當一個或多個感官影響的人,激怒通過一定的閾值的負載,通常會讓人或多或少地失去了知覺,喪失自主權,甚至不省人事。
在一個汽車論壇在越南,它講述了一個年輕的男子在團體旅遊的情況下,深夜停在中央通吃,出門時遇到鬼。男子失去意識無法再發言,她生病在家返回了好幾天。
否則,人們沒有能力控制一台機器,在7部分不同的東西。事實證明,這被淹沒的感覺(拿破崙在7可以讀取它寫不同的字母是一種罕見的事件) 。發生飛機事故的原因之一由於混亂的試點(試點誤差) 。在日常生活中的經驗,我們常說: “我驚呆了聽......”或“我怕太微弱”等..
如果我們學會運用人性化的生理反應,我們可以解釋和應用的有效途徑,他的冥想。進入井後,有沒有什麼神秘可言。事實上,它只是簡單的操控技術的應用。知道了使用普通的對象,一個或多個重載感官冥想的影響將發生一個機械。如果你練習幾次,經驗教給我們操作的中心是最好的技術。這是我們最好的老師。
有人追求冥想帶來的敬業精神已經和將進行了一系列領先的歷史學家。當然,這是消費大眾,滿足所有其他人,多少參考資料,書籍,實踐中,許多學校。但在最後,我只是覺得自己還是,沒有什麼變化,那麼,就安慰自己: “我已經改變了過去的氣質。 ”
這可以完全顛倒過來,如果我們有一個系統如何架構和運作自己的理論知識,伴隨著冥想練習的技術性質和性能的結果。當時,所有上述將成為對過去的回憶。
簡單真理資本。因為它只是讓人驚喜。
為了能夠部署一個有效的冥想技巧,知識真正需要的是堅實的基礎設施建設。事實上,如果我們懷疑,所使用的技術本身,他們的工作很難順利進入。
,我們缺乏如果分析阿昆達摩傳統許多成功要素譚冥想。因素優勝者(決定選擇) ,勤奮(確定的目標,馬不停蹄... ) ,我們就需要有中心,必須有慾望,使法國稱為教育,滋養心靈,被稱為盡職調查。
我們都知道該怎麼做成功的信心。相反,如果有負面情緒,當然很難獲得成功。也許是因為缺乏知識,我們不明白,產生疑問。這種傳統的佛教中心的心臟迴避分類釋放的目的。
在此之前實施數字操縱,感知還必須解決很多冥想的心理問題。混亂的因素是首先提出許多技工學校,理論,學說關於冥想。如果是這樣,問題是:哪一個是最好的?選擇哪一個?他應該或可能自殺呢?需要純焦炭,淨虧損? ...
一個適當的技術,一個真正的理論是上述所有問題的答案。扔他的身體世界前釋加牟尼(佛)說:“知識的人是真正的高手。 ”智慧的真理的話似乎暗示想追求任何科學學科的人。釋加牟尼的點實際上是有道理的。事實上,人們可以通過網絡媒體在世界各地的大學學習很多科目。
那些誰練習冥想(這裡我們指的是專業人士) ,一直奉行這個工作,多年來,在任何公立學校,發現人們從未進入是,還有人誰是現在,沒有。這種不治之症,禪修的災難。雖然有很多方法“治療”已被提出,但仍然。
原因必須是極長的線在頂部,在這個問題上,因為我們有雄心,有效地找到答案性和實踐性。我們希望有一個良好的理論和技術的幫助那些誰不禪修走了彎路,避免失敗不應該有。從那裡,我們希望能找到規律總體目標的冥想。
誠如上文所述,這篇文章是多一點的性質,冥想的做法帶來了突破。這不是一個作曲家,但至少採取系統的理論和技術的冥想。在這裡,人們可以找到什麼是實用和有效的統計比那種古怪的頭腦阿毗達摩。
本文作者曾試圖避免理論,攜帶太重的技術性唯一的宗教思想,理性的位置,遠離現實...很難申請到像我們這樣的普通老百姓,因為一不小心就會變成一個烏托邦主義。
的技術理論和實踐的性質和有效的當符合以下條件:
- 必須滿足的思想形式的基本法律。
- 評論的理論,所有的實際思維形式規則,這意味著不言自明的理論經驗,事實證明是真實的。
有一個滿足上述要求的理論和技術...至少在現代科學而言,它本質上是實用。當使用這些測量醫藥,實踐已經證明這種技術帶來積極的後果:例如,外觀THETA波在大腦中的電測漫長的打坐。 θ波帶來純潔,和平與愛的狀態,血壓下降等。 ..
在這裡,我們想向大家介紹的過程中吸收佛教冥想的小學和其他學校和理論,假設...解釋這種現象三昧。帖子會變成4段以下的問題:
- 實用科技三昧經驗。
- 如何在實踐中實施的步驟,吸收的過程中。
- 理論解釋阿毗達摩的傳統。
- 解釋量子思維理論。
A.實際體驗的項目類型:
記住需要被用在許多不同的目的。為了實現這一目標,學校使用了很多不同的形式。畢竟,它們共享相同的性質。
1。催眠:
有許多不同學校的催眠。最常用的方法是通過兩種意義上的最重要的人,這是視覺和聽覺的影響,注意。催眠師問直視他們的眼睛,或事先準備好的材料。他們口頭勸說,重複一個短語,自然界提醒,指示和裹挾。
2。西藏曼陀羅:
作為一個複雜的場景由人類創造的,經常有一個共同的內容。此方案影響的感官,包括人類的思想。曼陀羅的原因有很多這樣的怪看起來高貴的天性造成了很大的影響,筆者認為是有益的,因為情節將有更多優點。此外,還有其他可能的因素,以及其他不能確定的能量。這是一個事實證明,創造有效的,值得關注打坐。
3。拉賈瑜伽和佛教有著相同的公式:
“專注於一個單一的對象。 ”
該公式包括通用的流程包括:範圍,四方,第一中心,HY樂觀地認為,每個人都知道。當然更不用提了很多心封閉設施。
4 。 “財富” :
通常使用的晶體或玻璃彈珠圈,因為他們重視並不斷尋找在無盡的空間。這一行動使他們失去了知覺。
5 。還有許多其他的學校:
作為催化劑,即使使用醉的。
B.如何實際表現步驟,進入的過程中:
基於上面列出的一些學校的工程實踐上,它可能會帶來性能一般的目標承擔一份聲明:
“頭腦必須不斷地專注於一個對象,直到頭腦固步自封” 。
你可以稱這是一種技巧,小的秘密,但它的關鍵是如何導入文件。做的過程中,操作如下:觀察眼後,聽到你的耳朵,正常......我只是閉上我的眼睛:
1。嘗試地看到,心中的全部細節的圖像。
2。試著聽到講話的聲音,如腿。
3。嘗試指望聽到真正的語言的數量。
4 。嘗試的氣味,如香水,利用一切可能的感官,採取對象。
在同一時間,所有這些事情必須做,目的是使感官成為重載。這些事情必須做在最激烈,持續和放鬆。如果反复所做的那樣,我們突然在腦海中(在下一節,我們將解釋機制,在考慮這個問題,量子理論) 。
這可能是很多人不知道如何打坐本練習中,這麼多的蹉跎歲月。它似乎是大部分的後移。我們嘗試去思考,而是要聽到心靈的聲音,而不是讀給自己的耳朵聽到的聲音。
討論冥想選定對象,我們應該關注:
- 科目可愛的外觀,良好的表達。
- 對象比較複雜,影響多種感官。
- 主題必須是,必須始終改變話題,以避免無聊。
- 對象可以創造強烈的感情。
C.輸入過程的理論解釋阿昆達摩:
為了能夠看到一個特定的方式,請向你的讀者學習和附圖,參考以前的文章。
D.譚量子假說:
當今的科學經常被用來模型,模擬自然世界。我們假設一個實體打坐,記為( E ) 。 E是一組有限下定決心了,這是非常小,不是一個無限集合,而不是一個空集。事實上,我們可以通過以下形式:
É = { X , Y, ...} (其中X和Y是利益團體)
目前有太多除以頭腦,但為了簡化,我們劃分的思想解放的目的的基礎上分為兩類:
中心旨在釋放:
X = {A, B,C }
它並不旨在向釋放:
Y = {D ,H ,K }
對於:
Ë = X U Y
心靈有一個實體在一個正常的狀態,沒有任何影響,它通常被稱為一種被動的心態。被動並沒有坐以待斃,不僅是“安全中心” 。如果我們承認無常和無私......當然在不斷的運動狀態的實體的中心的概念。如果有一個心靈上的影響,我們可以寫以下內容:
E + F Ξ ð
F(力)的部隊
D(尺寸) :空間尺寸
這種現象可以解釋如下:
的範圍和中心的一個實體稱為四方,一種面向對象的,它會吸收一些能量從物體。在除了這種能量,有可能是未知的其他能源。所吸收的能量可能是向對象的注意力和時間的量成正比。在一定程度上,潭潭和塗一些量子輻射, (如果通過顏色的可能性七種顏色)。在這種狀態下,中央第三,第四,因為輻射量子所以不要其他有關實體變暗。能量被吸收和輻射能量的變化的一個實體。這種機制可以創建定省輸入。
然而,更不用提其他的可能性,這是沒有引起重視徘徊。一種可能的解釋如下,同時實施上述過程中吸收,量子隨機與其他中心的能源正在進行的吸收更大的影響。
集理論的導入過程中,如果全面實施,實體突然改變,所以要轉換到一個合適的參考系統,移動到不同的維度。
作者:央視Mục đích của bài viết này là cung cấp một số kỹ thuật và một số lý thuyết (không thể tránh khỏi) cho bất cứ ai có nhu cầu nhập định, vì nhiều mục đích khác nhau và không phân biệt trường phái. Bài viết này được xây dựng dựa trên rất nhiều cơ sở: Trường phái Raja Yoga, trường phái Phật Giáo, trường phái Thôi Miên ... và kinh nghiệm thực tế của chính những người viết bài này.
Chúng ta thường cho rằng những trường phái nói trên chẳng liên quan gì tới nhau. Nhưng thực sự, các trường phái này đều sử dụng những kỹ thuật về mặt cơ bản rất giống nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, người ta có thể thấy có rất nhiều trạng thái giống như người nhập định thụ động. Tuy nhiên, việc này còn tùy thuộc vào cách định nghĩa nhập định là gì.
Trong bài viết này, chúng ta chỉ giới hạn nhập định ở khu vực Dục Giới. Nhiều lắm là Sơ Thiền Hữu Sắc. Kỹ thuật nhập định ở đây chỉ thuần túy là kỹ thuật nhằm chuyển đổi từ một người bình thường qua một người với cái tâm đứng im, còn gọi là An Chỉ Tâm. Ở trạng thái này, người tập thiền định tự phát hiện ra rằng dường như mình có nhiều con người ...
Có những hiện tượng có vẻ giống như nhập định thụ động: Khi xem hát những loại nhạc quá kích động, người ta cũng có thể bị xỉu. Các loại thuốc gây nghiện, thuốc ngủ, thôi miên, lên đồng, cận tử ... có thể những tác nhân này tạm thời làm cho người ta mất ý thức. Trong điều tra tội phạm, việc chiếu nguồn sáng cực mạnh vào người bị hỏi cung là nhắm mục đích làm cho người đó mất đi ý thức, mất đi khả năng nói dối, ký ức về sự thật được khơi dậy từ tiềm thức. Người thôi miên khuyến dụ đối tượng nhìn vào mắt của mình, nhìn vào một nguồn sáng nhỏ, nhìn vào một cái gì đó đã được chuẩn bị từ trước cũng với mục đích cũng tương tự như trên; là làm đối tượng tạm thời mất đi ý thức. Trong chiến tranh, người ta sử dụng những công cụ phát âm thanh cực lớn, phát ra mùi cực kỳ khó chịu để làm cho binh sĩ đối phương mất ý thức, thậm chí bỏ chạy. Các võ sĩ nhu đạo trong khi đấu đối kháng cũng thét lên tiếng thét là " kiai ".
Quan sát các hiện tượng nói trên và cố gắng tìm ra các mối quan hệ giữa các hiện tượng, chúng ta có thể đưa đến một phát biểu có tính chất của một qui luật tổng thể khách quan. Đó là: Khi một hay nhiều giác quan của một người bị tác động, bị kích thích vượt qua một ngưỡng nào đó của việc chịu tải thông thường sẽ làm cho con người mất đi ít nhiều ý thức, mất tự chủ, thậm chí là bất tỉnh.
Trong diễn đàn về xe hơi ở Việt Nam, có kể về trường hợp một thanh niên trong đoàn du lịch, ngừng lại đêm khuya ở một cái đèo miền Trung để ăn cơm, trong lúc đi ra ngoài thì gặp ma. Người thanh niên mất ý thức không nói được nữa, khi trở về nhà bị bệnh nhiều ngày.
Mặc khác, con người không có khả năng điều khiển một máy móc gì đó có trên 7 phần khác nhau. Điều này chứng tỏ là do ý thức bị quá tải (Napoleon có thể đọc cho người ta viết một lúc 7 bức thư khác nhau là một trường hợp hy hữu). Một trong những nguyên nhân tai nạn máy bay thường xảy ra là do những nhầm lẫn của phi công (Pilot error). Kinh nghiệm trong cuộc sống đời thường, chúng ta cũng từng nói: "Tôi nghe xong là choáng váng ..." hoặc "sợ quá tôi muốn xỉu" v.v...
Mặc khác, con người không có khả năng điều khiển một máy móc gì đó có trên 7 phần khác nhau. Điều này chứng tỏ là do ý thức bị quá tải (Napoleon có thể đọc cho người ta viết một lúc 7 bức thư khác nhau là một trường hợp hy hữu). Một trong những nguyên nhân tai nạn máy bay thường xảy ra là do những nhầm lẫn của phi công (Pilot error). Kinh nghiệm trong cuộc sống đời thường, chúng ta cũng từng nói: "Tôi nghe xong là choáng váng ..." hoặc "sợ quá tôi muốn xỉu" v.v...
Nếu chúng ta biết vận dụng những phản ứng tâm sinh lý tự nhiên của con người, thì chúng ta có thể giải thích, ứng dụng một cách có hiệu quả vào việc thiền định của mình. Suy cho cùng việc nhập định cũng chẳng có gì là bí ẩn cả. Thật ra đó chỉ là việc ứng dụng những thao tác kỹ thuật đơn sơ. Biết sử dụng những đối tượng bình thường, để làm quá tải một hay nhiều giác quan, thì hiệu ứng thiền định sẽ xẩy ra một cách cơ học. Và nếu thực hành nhiều lần, kinh nghiệm sẽ dạy cho ta biết thao tác kỹ thuật nào là tốt nhất để đưa đến việc định tâm. Đây chính là ông thầy tốt nhất của chúng ta.
Ai đó từng theo đuổi việc thiền định mang tính chuyên nghiệp đều đã, đang và sẽ trải qua giai đoạn tầm sư học đạo. Tất nhiên đây là việc tốn nhiều công của, gặp hết người này đến người khác, tham khảo biết bao nhiêu tài liệu, sách vở, thực tập nhiều trường phái. Nhưng cuối cùng thấy mình vẫn chỉ là mình, chẳng có gì thay đổi, Thôi thì chỉ đành tự an ủi: "Tôi có thay đổi tâm tánh hơn xưa".
Điều này có thể hoàn toàn đảo ngược nếu chúng ta có kiến thức về lý thuyết một cách có hệ thống về cấu tạo và vận hành của chính bản thân mình; kèm theo đó là kỹ thuật về thiền định mang tính chất thực tiễn và hiệu quả. Lúc đó, tất cả những điều nói trên sẽ trở thành kỷ niệm của quá khứ.
Chân lý vốn đơn giản. Chính vì đơn giản nó làm cho người ta bất ngờ.
Ai đó từng theo đuổi việc thiền định mang tính chuyên nghiệp đều đã, đang và sẽ trải qua giai đoạn tầm sư học đạo. Tất nhiên đây là việc tốn nhiều công của, gặp hết người này đến người khác, tham khảo biết bao nhiêu tài liệu, sách vở, thực tập nhiều trường phái. Nhưng cuối cùng thấy mình vẫn chỉ là mình, chẳng có gì thay đổi, Thôi thì chỉ đành tự an ủi: "Tôi có thay đổi tâm tánh hơn xưa".
Điều này có thể hoàn toàn đảo ngược nếu chúng ta có kiến thức về lý thuyết một cách có hệ thống về cấu tạo và vận hành của chính bản thân mình; kèm theo đó là kỹ thuật về thiền định mang tính chất thực tiễn và hiệu quả. Lúc đó, tất cả những điều nói trên sẽ trở thành kỷ niệm của quá khứ.
Chân lý vốn đơn giản. Chính vì đơn giản nó làm cho người ta bất ngờ.
Để có thể triển khai một cách hiệu quả các kỹ thuật thiền định, thì việc xây dựng kiến thức hạ tầng cơ sở vững chắc là điều thật sự cần thiết. Thật thế, nếu chúng ta nghi ngờ vào các kỹ thuật mà chính mình đang sử dụng, thì việc nhập định rất khó thành công.
Nếu phân tích theo truyền thống Vi Diệu Pháp, chúng ta thiếu rất nhiều các yếu tố TÂM để thành công trong thiền định. Lẽ ra chúng ta cần phải có những yếu tố Tâm như là Thắng Giải (chọn lựa để quyết định), Tinh Tấn (cương quyết đặt mục tiêu không ngừng nghỉ ...), phải có lòng ham muốn thực hiện gọi là Pháp Dục, phải nuôi dưỡng các Tâm trên, gọi là Mạn Căn.
Chúng ta đều biết khi làm một việc gì có lòng tin thì dễ thành công. Ngược lại, nếu có tâm lý tiêu cực, tất nhiên khó thành công được. Có thể do việc thiếu kiến thức làm chúng ta không hiểu rõ nên sanh ra nghi ngờ. Những Tâm này theo truyền thống Phật Giáo, xếp vào loại tâm xa lìa mục đích giải thoát.
Trước khi tiến đến việc thực hiện các thao tác kỹ thuật, tưởng cũng cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề tâm lý của người tập thiền định. Yếu tố gây bối rối đầu tiên là hiện nay có rất nhiều kỹ thuật, trường phái, lý thuyết, chủ thuyết nói về thiền định. Nếu vậy thì câu hỏi được đặt ra là: Cái nào là tốt nhất? Cái nào nên chọn? Cần phải có Thầy hay có thể tự tu? Cần tịnh cốc, tịnh thất? ...
Chúng ta đều biết khi làm một việc gì có lòng tin thì dễ thành công. Ngược lại, nếu có tâm lý tiêu cực, tất nhiên khó thành công được. Có thể do việc thiếu kiến thức làm chúng ta không hiểu rõ nên sanh ra nghi ngờ. Những Tâm này theo truyền thống Phật Giáo, xếp vào loại tâm xa lìa mục đích giải thoát.
Trước khi tiến đến việc thực hiện các thao tác kỹ thuật, tưởng cũng cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề tâm lý của người tập thiền định. Yếu tố gây bối rối đầu tiên là hiện nay có rất nhiều kỹ thuật, trường phái, lý thuyết, chủ thuyết nói về thiền định. Nếu vậy thì câu hỏi được đặt ra là: Cái nào là tốt nhất? Cái nào nên chọn? Cần phải có Thầy hay có thể tự tu? Cần tịnh cốc, tịnh thất? ...
Một kỹ thuật đúng, một lý thuyết đúng chính là câu trả lời cho tất cả các câu hỏi trên. Sakya Muni (Phật Thích Ca) từng nói trước khi bỏ thân xác lại thế gian: "Tri thức đúng đắn là Thầy của mọi người". Lời nói này dường như bao hàm chân lý của sự minh triết cho bất cứ ai muốn theo đuổi bất cứ bộ môn khoa học nào. Quan điểm của Sakya Muni đã được thực tế chứng minh là đúng. Thực vậy, người ta có thể học rất nhiều bộ môn ở những trường đại học trên thế giới qua phương tiện online.
Những người tu tập thiền định (ở đây chúng ta đang đề cập đến những người chuyên nghiệp), đã từng theo đuổi công việc này qua nhiều năm tháng, ở bất cứ trường phái nào, đều nhận thấy rằng có người chẳng bao giờ Nhập Định được, có người thì lúc được, lúc không. Đây chính căn bệnh nan y, là tai họa cho người tu tập thiền định. Mặc dù nhiều phương thức "chữa trị" đã được đề xuất nhưng đâu vẫn vào đấy.
Sở dĩ phải vô cùng dài dòng về vấn đề này ở phần trên, vì chúng ta có tham vọng tìm ra đáp án mang tính chất thực tế và hiệu quả. Chúng ta hy vọng có một lý thuyết tốt và một kỹ thuật giúp cho những người thực hành thiền định không phải đi đường vòng, tránh thất bại không cần phải có. Từ đó chúng ta hy vọng tìm ra qui luật tổng thể khách quan của bộ môn thiền định.
Như đã trình bày ở phần trên, bài viết này ít nhiều cũng mang tính chất, mang ý định đột phá trong bộ môn thiền định. Đây không phải là một sáng tác, nhưng ít nhất cũng mang tính hệ thống hóa lý thuyết và kỹ thuật của bộ môn thiền định. Ở đây người ta có thể tìm thấy những gì thực tế và hiệu quả hơn so với những bản thống kê về các loại tâm quá lạt lẽo của những bộ Vi Diệu Pháp.
Tác giả của bài viết này đã cố tránh một lý thuyết, một kỹ thuật mang quá nặng tính chất chủ nghĩa duy tín ngưỡng, chủ nghĩa duy lý trí, xa thực tế ... khó áp dụng cho người bình thường như chúng ta; vì vô tình nó sẽ biến thành một chủ nghĩa không tưởng.
Một lý thuyết và kỹ thuật mang tính chất thực tế và hữu hiệu khi nó đáp ứng được những tiêu chuẩn sau đây:
- Phải thỏa mãn được những qui luật cơ bản của tư duy hình thức.
- Lý thuyết này xét ở mặt chủ nghĩa thực tiển phải đáp ứng được qui luật tư duy hình thức, có nghĩa là tiên đề lý thuyết được kinh nghiệm, thực tế chứng minh là đúng.
Đã có một lý thuyết và kỹ thuật đáp ứng được những yêu cầu nói trên ... ít nhất về mặt khoa học hiện đại, nó mang tính chất thực tiễn. Khi sử dụng những phép đo lường trong y khoa, những kỹ thuật tu tập này đã chứng minh đem lại những hệ quả tích cực: Thí dụ như sự xuất hiện của sóng Theta khi đo điện não trên người thiền định lâu ngày. Sóng Theta này đem lại sự thanh tịnh, trạng thái an lạc và tình thương; huyết áp giảm v.v...
Sau đây chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tiến trình nhập định của trường phái thiền định nguyên thủy Phật giáo và một số trường phái khác cùng những lý thuyết, giả thuyết ... giải thích về hiện tượng nhập định này. Bài viết sẽ lần lượt đề cập đến 4 vấn đề sau đây:
Đã có một lý thuyết và kỹ thuật đáp ứng được những yêu cầu nói trên ... ít nhất về mặt khoa học hiện đại, nó mang tính chất thực tiễn. Khi sử dụng những phép đo lường trong y khoa, những kỹ thuật tu tập này đã chứng minh đem lại những hệ quả tích cực: Thí dụ như sự xuất hiện của sóng Theta khi đo điện não trên người thiền định lâu ngày. Sóng Theta này đem lại sự thanh tịnh, trạng thái an lạc và tình thương; huyết áp giảm v.v...
Sau đây chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tiến trình nhập định của trường phái thiền định nguyên thủy Phật giáo và một số trường phái khác cùng những lý thuyết, giả thuyết ... giải thích về hiện tượng nhập định này. Bài viết sẽ lần lượt đề cập đến 4 vấn đề sau đây:
- Kinh nghiệm thực tế của loại Kỹ Thuật Nhập Định.
- Cách thực hiện trên thực tế các bước, các tiến trình Nhập Định.
- Lý thuyết giải thích theo truyền thống Vi Diệu Pháp.
- Giải thích theo giả thuyết về Lượng Tử Tâm.
A. KINH NGHIỆM THỰC TẾ CỦA CÁC LOẠI NHẬP ĐỊNH:
Định tâm là nhu cầu cần thiết để sử dụng trong nhiều mục đích khác nhau. Để đạt được mục đích này, các trường phái sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau. Suy cho cùng, thì cùng chung một bản chất.
1. Thôi miên:
Có rất nhiều trường phái thôi miên khác nhau. Phương thức phổ thông nhất là gây tác động, gây sự chú ý thông qua 2 giác quan quan trọng nhất của con người, đó là thính giác và thị giác. Người thôi miên yêu cầu nhìn vào mắt họ, hoặc một vật đã được chuẩn bị trước. Họ khuyến dụ bằng lời nói, nhắc đi nhắc lại một mệnh đề, mang tính chất nhắc bảo, chỉ thị và ép buộc.
2. Mandala của Tây Tạng:
2. Mandala của Tây Tạng:
Là một kịch bản phức tạp do con người tạo ra, thường có chung một nội dung. Kịch bản này tác động đến hầu hết đến các giác quan, kể cả tư tưởng của con người. Mandala gây được tác động rất mạnh vì nhiều lý do như lạ, tính chất có vẻ cao quí, có lợi vì hành giả nghĩ rằng khi tập sẽ có nhiều phước báu. Bên cạnh đó có thể còn có những yếu tố, năng lượng khác mà chưa xác định được. Đây là một phát minh thực tế chứng tỏ hiệu quả, xứng đáng để cho người tu thiền định quan tâm.
3. Raja yoga và trường phái Phật giáo chia sẽ cùng một công thức:
3. Raja yoga và trường phái Phật giáo chia sẽ cùng một công thức:
"Chú tâm vào một vật duy nhất".
Công thức này bao hàm tiến trình phổ thông bao gồm: Tầm, Tứ, Nhất tâm, Hỷ lạc mà ai cũng biết. Tất nhiên còn phải kể đến rất nhiều Tâm sở kèm theo.
4. Người đoán vận mạng:
Thường sử dụng một khối pha lê hay thủy tinh hình tròn như một viên bi to và họ chú tâm liên tục nhìn vào không gian vô tận. Động tác này làm họ mất đi ý thức.
5. Còn nhiều trường phái khác:
Thậm chí sử dụng chất say làm chất xúc tác.
Công thức này bao hàm tiến trình phổ thông bao gồm: Tầm, Tứ, Nhất tâm, Hỷ lạc mà ai cũng biết. Tất nhiên còn phải kể đến rất nhiều Tâm sở kèm theo.
4. Người đoán vận mạng:
Thường sử dụng một khối pha lê hay thủy tinh hình tròn như một viên bi to và họ chú tâm liên tục nhìn vào không gian vô tận. Động tác này làm họ mất đi ý thức.
5. Còn nhiều trường phái khác:
Thậm chí sử dụng chất say làm chất xúc tác.
B. CÁCH THỰC HIỆN THỰC TẾ CÁC BƯỚC, CÁC TIẾN TRÌNH NHẬP ĐỊNH:
Căn cứ vào kỹ thuật tập luyện của một số trường phái kể trên, người ta có thể đưa đến một phát biểu mang tích chất tổng quát khách quan:
“Muốn định tâm thì phải chú tâm liên tục vào một đối tượng cho đến khi tâm đứng im”.
Có thể gọi đây chính là loại thủ thuật, một bí quyết tuy nhỏ nhưng nó là chìa khóa của cách tập đưa đến nhập định. Tiến trình, thao tác được thực hiện như sau: Sau khi quan sát bằng mắt, nghe bằng tai bình thường ..., ta hãy nhắm mắt lại:
1. Cố gắng nhìn thấy hình ảnh đó trong trí óc với đầy đủ các chi tiết.
2. Cố gắng nghe những âm thanh như chân ngôn chẳng hạn.
3. Cố gắng đếm số lượng chân ngôn nghe được.
4. Cố gắng ngửi mùi, như mùi hương chẳng hạn, dùng tất cả các giác quan có thể có, để tiếp nhận đối tượng.
Rất có thể nhiều người tu thiền định không biết cách tập luyện này, nên đã lãng phí bao nhiêu năm tháng. Dường như đại đa số lại tập ngược lại. Chúng ta thử nghĩ lại, đúng ra là phải nghe âm thanh trong tâm trí, chứ không phải là đọc âm thanh để cho mình nghe bằng tai.
Bàn về chọn đối tượng để tu thiền, chúng ta nên quan tâm:
- Đối tượng ngoại hình nên khả ái, biểu hiện của cái tốt.
- Đối tượng có nhiều chi tiết phức tạp, tác động đến nhiều giác quan.
- Đối tượng phái lạ, phải thay đổi đối tượng luôn để tránh sự nhàm chán.
- Đối tượng có khả năng tạo cảm giác mạnh.
C. LÝ THUYẾT GIẢI THÍCH TIẾN TRÌNH NHẬP ĐỊNH THEO VI DIỆU PHÁP:
Để có thể hình dung một cách cụ thể, xin quí độc giả vui lòng nghiên cứu bản vẽ kèm theo và tham khảo thêm những bài viết trước.
D. GIẢ THUYẾT LƯỢNG TỬ TÂM:
Khoa học ngày hôm nay thường sử dụng hình thức mô hình để mô phỏng thế giới tự nhiên. Chúng ta giả định một thực thể tu thiền định, được ký hiệu là (E). E là một tập hợp có cấu tạo tâm là hữu hạn, có nghĩa là nhỏ hơn vô cùng và không phải là một tập hợp vô hạn, cũng như không phải là một tập hợp rỗng. Chúng ta có thể mô tả thực thể bằng hình thức sau đây:
E = { X, Y, …} (trong đó X và Y là các nhóm tâm)
Hiện nay có quá nhiều cách chia các tâm; nhưng để đơn giản hóa, chúng ta chia các tâm thành hai loại căn cứ vào mục đích giải thoát:
Hiện nay có quá nhiều cách chia các tâm; nhưng để đơn giản hóa, chúng ta chia các tâm thành hai loại căn cứ vào mục đích giải thoát:
Tâm hướng đến mục đích giải thoát:
X = { A, B, C }
Tâm không hướng về mục đích giải thoát:
Tâm không hướng về mục đích giải thoát:
Y = { D, H, K }
Cho ra:
E = X U Y
E = X U Y
Tâm của một thực thể ở trạng thái bình thường, không có tác động nào cả, người ta thường gọi là tâm thụ động. Thụ động không phải là đứng im, không phải là An Chỉ Tâm. Nếu chúng ta công nhận khái niệm vô thường và vô ngã … thì tâm của các thực thể tất nhiên phải ở trạng thái vận động liên tục. Nếu có tác động vào tâm, chúng ta có thể viết như sau:
E + F Ξ D
F (Force): lực tác động
D (Dimension): chiều không gian
Hiện tượng này có thể giải thích như sau:
Khi những Tâm gọi là Tầm và Tứ của một thực thể, hướng về một đối tượng thì sẽ hấp thụ một số năng lượng từ những đối tượng đó. Ngoài những năng lượng này, có thể còn có những năng lượng khác chưa xác định được. Sự hấp thụ năng lượng có lẽ sẽ tỉ lệ thuận với số lượng tâm và thời gian hướng về đối tượng. Đến một giới hạn nào đó thì Tâm Tầm và Tứ sẽ bức xạ một số lượng tử, (nếu chuyển qua màu sắc thì khả năng có thể là bảy màu). Ở trạng thái này, Tâm Tầm và Tứ, vì bức xạ các lượng tử nên làm các tâm khác của thực thể bị lu mờ đi. Chính năng lượng được hấp thụ và bức xạ làm thay đổi năng lượng của một thực thể. Đây có thể là cơ chế tạo ra Nhập Định.
Tuy nhiên cũng phải kể đến những khả năng khác, không đưa tới định tâm mà đưa tới phóng tâm. Có thể giải thích như sau, trong khi thực hiện những tiến trình nhập định nói trên, thì ngẫu nhiên có những lượng tử tâm khác có năng lượng lớn hơn tác động vào người đang thực hiện tiến trình nhập định.
Đặt giả thuyết là tiến trình nhập định nếu được triển khai trọn vẹn thì thực thể có đột biến thay đổi, do đó, phải chuyển đổi đến một hệ quy chiếu phù hợp; nghĩa là chuyển đến một chiều không gian khác.
Tác giả: CTR
