Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

冥想理論簡介Dẫn nhập giả thuyết về thiền định

冥想理論簡介











一概述:






據推測,冥想是一種現象客觀真實的現象,這也是由人對違約命運的自然世界的技術發明。冥想是一種工具,通過實踐經驗,當我還在生活,幫助人們死亡的概念。另一方面,有冥想的效果,創建一個錯覺,自欺欺人 - 講風格的精神。

這是事實,我們必須承認,如果它是進入它知道發生了什麼事會發生,也不是完全罕見。因此,尋找和建立一個理論,冥想的理論是必須要做的。每個人都知道,科學總是應該搭建完整的理論為自己,冥想的做法也不例外。

對於某人來說,如果你要檢討的冥想的做法感到害怕的原因有很多。直接競爭對手是科學冥想現代互聯網,偉哥,手機。他們是務實性的象徵。現代科學已經變成了一種宗教,當然,一定要有追隨者,迷信和狂熱是必然的結果。

另一方面,更何況相當普遍心理冥想操場。人們認為他們必須放棄所有的宗教,而不是優雅,溫柔,甚至與概念,知識本身是一個障礙。思考,即使是主流的學校,也不是佛教的觀點來看。

學校所在地和所有權是兩個不可或缺的因素導致解放的目的。即使是正常的科學,不通溫柔的樂趣,更別說打坐。只要練習駕駛摩托車,汽車...這將需要數天,甚至提交一份正式的發揮需要4年或更長時間。因此,了解宇宙的所有的事實是無常的,無私的...只是尖叫聲,一個高度......是什麼人需要三思。天才似乎是遊戲的耐心。

許多學校相關的,此人被稱為是冥想的做法,它是幾乎沒有一所公立學校的技術文件或冥想理論。實在太簡陋技術(維恩GIAC材料)或遙遠的,不可理解的實際文件,用知識正常的人(如跨安和嚴亭) 。


在西方,我們可以學習文件的女性聖特里薩的阿維拉在15世紀。這似乎是一種冥想,就像冥想課程,但在實踐方面,通過上述工作,我們學到了什麼?

此外,還有許多作者和讀者,你可以參考為Blavasky , Krisnamurti ,鈴木......目前,該媒體稱,多達600研究冥想和數百篇...許多著名大學美國研究。書籍 - 你永遠Lobsangs然巴是在上個世紀​​在歐洲藏密的象徵。他在西藏和後來在英國是一個訓練有素的學術標準。在本文中,我們沒有找到一個系統的理論,以及冥想技巧練習。

它也可能由於上述原因,但一個真正的人會感到迷失方向和意圖冥想的做法,如果是說,沒有什麼具體的結果。那些在操場上跟她是否有辯論,試圖保護自己有時回頭想想,不知道的,關鍵的東西是真還是假!事實上,看不見的東西,然後說,他的妻子得到任何標準,最困難的自卑,感到暈頭轉向。

二。介意細胞的實體:

也許唯一的佛教學校,離開阿毗達摩材料(通常稱為佛教心理學) 。該文件本質上是一種理論分析,綜合,包括很多細節的冥想技巧。然而,可能是這個文件僅適用於實際的冥想練習,結果收效甚微。事實上,在阿毗達摩,譚,構成各個領域的實體單位,這名男子是它只有一小部分,將闡述。因此可以說,不僅為讀者寫該文檔的。

那些從來沒有誰進入了真正身臨其境的體驗其他領域的人類無法理解的材料阿昆達摩說些什麼。獲取具體的例子阿毗達摩說:“無形的冥想進入光學部長必須考慮作為其對象,假設是現有的大好形勢下的財產 - 當然是有用的身份慈善 - 有2個基本護理:唯一的心靈和快樂(和最樂觀的心態) ,沒有觀察到深找這麼多女人心(心部) 。除了強度,並確定質量,實體質量質量冥想洩漏的第四級。後果冥想的境界,智慧,經驗...可能突破的假象,那就是冥想課程是進一步...“ 。





以上是沒有意義的,如果讀者沒有在一個彩色有機禪修,經驗豐富的現實作用。這篇文章是基於以下3個數據庫冥想:




1。瀕死的文獻。

2。阿毗達摩材料。

3。體驗實現一些從業人員的冥想和那些誰寫這篇文章。




讓我們來介紹一種說法叫“心理理論”,或者更確切地說,被稱為“量子力學的心”或“心靈量子動力學。 ”據古文獻,周圍的利息金額近200元。譚磚打造世界的實體在任何境界,只是不同的種類和數量,以及化學元素,亞原子(亞原子粒子,使原子)已建立了物理世界在我們身邊。中心可能是不能分割的最小單位。




科學現在知道的化學元素及其相互作用規律的姓名和電話號碼。但它不會有一個答案的姓名和電話號碼的興趣,儘管擺弄多年來。更何況不同的化學和電磁相互作用的心靈。如果我們違約利息,也帶負電荷,利息按照不同的法律所謂的法律,相應的,具體的境界,良好的精神狀態,約35顆衛星。




護理單元包含了大量的精力:慾望,慾望,同情,也不好,實地考察(創建的因果) , DUY工作(不創建因果關係)仍然在上述文件中心有一個很重要的作用。描述了文檔的:“心的頭,所有的文物記” 。根據傳統的阿毗達摩的材料(如出生質量的能量,肉體的出生)出生的頭腦。對於像我們這樣的人,我們的身體創造出來的人對能源的興趣。




意識從來沒有單獨存在,它們總是包圍了很多的心理狀態。生活的心靈受到法律的約束:出生頭,蟲蛀,殺死。





III 。組織實體的心態和問題ENTRY :
有沒有任何神學學校的文檔,是佛教阿毗達摩像任何傳統的文檔。在這裡,沒有上帝,聖靈,聖事,啟示或奇蹟...等任何科學學科一樣,在開始時,我們還必須接受一些公理假設性質(假設) 。接下來,一切都在一個非常統一的原則作為一個序列的物質和機械,像所有正常的人都能理解。


仍然根據到阿昆達摩,有許多不同的領域,數字不能被計算,因為實現的實體的數量近200護理注意,與其他實體,只有2或3的中心。因此,類似的中心將創建一個境界,一種境界的頭腦根據各自的法律實體的數量和質量的護理。在不同的領域,時間的推移會有所不同。


在這裡,我們看的一般描述的境界。
有四個基本領域:慾望,慾望,無形,涅磐。

- 11個領域的慾望:地獄,餓鬼,阿修羅,動物,人類,四大天王,三十年來道德的皮膚,石油,化工通信,自我異化英寸
- 情慾4個領域:禪定,禪定,冥想中心,慈善機構。
- 4無色界不是無限的,無限的意識,無限的國有土地,理想的非非洲裔的想法。
根據上述模型,人們生活在其中的7個自然場景。這種安排承擔說明,我們暫時接受這樣一個命題。
還有阿毗達摩的傳統,人類,我們生活沒有什麼值得鼓勵和讚揚,其中包括更高的境界,活得更長,更快樂...等等。事實上,法律的誕生,凋零,疾病,死亡生效的所有實體。這是最痛苦的悲劇的所有實體。
為了避免這種災難的唯一辦法是冥想的做法,該工具能夠結束痛苦。是神,是上帝,可以幫助您,神靈本身也第一次生育,衰老,疾病,死亡佔主導地位。因此,閥門的肩膀,乞討,也不犧牲解決任何問題,因為對自然世界的規律是客觀規律,不歧視在世界上的所有實體,境界。
為了避免提出的理論路線的冥想練習的頭腦如何,我們盡量簡化狀態3如下:
1。人是集合了約200個單位的心靈,頭腦總是在運動中。然而,有一些興趣或超出人類的控制。其實這是人的心臟保護的本能,如果沒有它,人類就無法生存和成長,但阿毗達摩為中心樞紐是不道德的。
2。練習冥想時,約5比2的初級保健(範圍四,萬眾一心,喜悅,我們) ,加上至少35精神狀態,包括22個清光的心理,精神流浪者7 , 6特殊的精神景觀。實際進口之前,它只是有兩個中心:同心同德,我們。
3。冥想的性質的介紹,它是明確的, ,只有去除最吸引眼球的一個實體的存在是沒有必要的。但這種現象只發生在導入過程中,你出去的狀態返回到以前的狀態進入的利息金額。雖然數目的心態變化,但入場體驗打坐,通過心理學的巨大變化。還發現,這種情緒是人瀕死體驗的人。要結束這篇文章中,我們提出了一個公式如下:


與一個人或一個足夠強大的能量,它將改變和切換到其他維度的實體。
作者:央視
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2012/09/i.html

Dẫn nhập giả thuyết về thiền định


I. TỔNG QUAN:

Người ta giả thuyết rằng hiện tượng thiền định là một hiện tượng khách quan có thật, nó cũng là một phát minh kỹ thuật của con người nhằm chống lại định mệnh mặc định của thế giới tự nhiên. Thiền định còn là một công cụ, giúp con người có được khái niệm về cái chết qua trải nghiệm thực tế, khi mình còn đang sống. Mặt khác, cũng có người cho là các hiệu ứng mà thiền định tạo ra chỉ là ảo giác, tự kỷ ám thị - nói theo kiểu phân tâm học.

Có một sự thật mà chúng cần phải thừa nhận là nếu người ta thật sự nhập định được thì việc biết được những gì đã xẩy ra và sẽ xẩy ra, hoàn toàn không phải là điều hiếm có. Vì vậy việc tìm kiếm, xây dựng một giả thuyết, một lý thuyết về thiền định là việc nên làm. Ai cũng biết rằng bộ môn khoa học nào cũng cần phải xây dựng được lý thuyết để hoàn thiện chính mình, bộ môn thiền định cũng không là ngoại lệ.

Có rất nhiều lý do để cho ai đó, khi có ý định xét duyệt lại bộ môn thiền định cảm thấy e ngại. Đối thủ trực diện của thiền định là khoa học hiện đại: Internet, Viagra, Cell phone. Chúng là biểu tượng của tính chất thực dụng. Khoa học hiện đại biến thành một thứ tôn giáo, tất nhiên phải có những tín đồ, mê tín và cuồng tín … là hệ quả tất yếu. 

Mặt khác phải kể đến tâm lý khá phổ biến trong sân chơi thiền định. Người ta nghĩ là tu thì phải buông bỏ hết, phải thanh thoát, nhẹ nhàng, kể cả có quan điểm cho rằng bản thân kiến thức cũng là một trở ngại. Suy nghĩ này, ngay cả đối với trường phái chính thống Phật giáo cũng không đồng quan điểm. 

Trí và hữu học là hai yếu tố không thể thiếu được để đưa đến mục đích giải thoát. Ngay cả những bộ môn khoa học bình thường, cũng không thể tiếp cận bằng những thú vui nhẹ nhàng, huống chi là thiền định. Chỉ cần tập lái một chiếc xe máy, xe hơi … cũng phải mất nhiều ngày, thậm chí để tập chơi đàn một cách chính qui cũng phải mất bốn năm trở lên. Do đó, hiểu được tất cả sự thật của vũ trụ là vô thường, vô ngã … chỉ bằng một tiếng hét, một cái đánh … là điều người ta cần nghĩ lại. Thiên tài dường như là trò chơi của sự kiên nhẫn. 

Nhiều trường phái liên quan đến bộ môn thiền định mà đến nay người ta còn biết được, thì hầu như không có một trường phái nào để lại một tài liệu nào về kỹ thuật hoặc lý thuyết thiền định. Có chăng chỉ là những kỹ thuật quá thô sơ (tài liệu Viên Giác) hoặc những tài liệu xa vời thực tế, không thể hiểu nổi, bằng kiến thức bình thường của con người, (thí dụ như Thập Định của Hoa Nghiêm)

Ở Tây Phương, người ta có thể nghiên cứu tài liệu của Thánh nữ Theresa Avila ở thế kỷ 15. Có vẻ như đó là môt loại thiền quán, các phần khá giống các lớp thiền định … Nhưng về mặt thực hành, ta học được những điều gì qua những tác phẩm nói trên?

Bên cạnh đó còn rất nhiều tác giả, mà quí độc giả có thể tham khảo như Blavasky, Krisnamurti, Suzuki … Hiện nay, thông tin đại chúng cho biết có tới 600 công cuộc khảo cứu về thiền định và hàng trăm bài báo … được nhiều trường đại học nổi tiếng của Mỹ nghiên cứu. Tác phẩm You-Forever của Lobsangs Rampa đã là biểu tượng của Mật giáo Tây Tạng tại Châu Âu của thế kỷ trước. Ông là người được đào tạo chuẩn mực hàn lâm tại Tây Tạng và sau này tại Anh Quốc. Trong tài liệu này, người ta không tìm thấy một hệ thống lý thuyết cũng như kỹ thuật thiền định để có thể thực hành.

Cũng có thể vì những lý do nêu trên, mà một người thật sự có ý định tu thiền sẽ cảm thấy mất phương hướng và nếu có thực hành thì thực tình mà nói cũng chẳng có kết quả gì cụ thể. Có chăng là những buổi tranh luận với những người trong cùng sân chơi với mình, cố bảo vệ, phản biện những điều mà chính mình, đôi khi nghĩ lại, cũng chẵng biết có đúng hay không! Quả thật những việc vô hình, vô ảnh thì biết lấy gì làm chuẩn mực, cái khó nhất là mặc cảm tự ti, thấy mình mất phương hướng. 

II. TÂM LÀ TẾ BÀO CỦA CÁC THỰC THỂ:

Có lẽ duy nhất chỉ có trường phái Phật Giáo là đã để lại tài liệu Vi Diệu Pháp (thường được gọi là Tâm lý học Phật Giáo). Tài liệu này bản chất là một lý thuyết phân tích, tổng hợp, có cả kỹ thuật tu thiền định với rất nhiều chi tiết tinh vi. Thế nhưng tài liệu này có lẽ chỉ có giá trị cho người thực sự thực hành thiền định mà đạt được ít nhiều kết quả. Thật vậy, trong Vi Diệu Pháp, TÂM, đơn vị cấu tạo nên các thực thể ở tất cả các cảnh giới, mà con người chỉ là một thành phần rất nhỏ trong đó, đều được trình bày tỉ mỉ. Do đó có thể nói tài liệu này được viết ra không phải chỉ dành riêng cho con người đọc. 

Những ai chưa từng nhập định và trải nghiệm nhập vai thực thể của các cảnh giới khác loài người thì không thể nào hiểu được tài liệu Vi Diệu Pháp muốn nói cái gì. Lấy thí dụ cụ thể trong Vi Diệu Pháp nói rằng: "muốn nhập thiền vô sắc thì phải lấy quang tướng làm đối tượng, giả thuyết là một thực thể đang hiện hữu ở cảnh hữu sắc - tất nhiên là Tứ thiền hữu sắc - ở đây có 2 tâm cơ bản: Tâm duy nhất và hạnh phúc (nhất tâm và lạc), ở đây không quán sát sâu sắc để tìm rất nhiều tâm phụ (Tâm Sở). Ngoài cường độ, còn phải xác định đến chất lượng, chất lượng của thực thể này phải ở cấp chất lượng thứ tư là chất lượng thiền định tràn ra ngoài. Hệ quả của thiền định là kinh nghiệm thực sự của các cảnh giới, sự minh triết … vỡ lẽ các ảo mộng, biết rằng còn có các lớp thiền định cao hơn nữa …". 

Những điều trình bày trên là hoàn toàn vô nghĩa, nếu độc giả chưa từng ở vai trò của 1 hành giả Tứ thiền hữu sắc, kinh qua thực tế. Bài viết về thiền định này được dựa trên 3 cơ sở dữ liệu sau đây: 

1. Những tài liệu về cận tử.
2. Những tài liệu Vi Diệu Pháp.
3. Kinh nghiệm thực chứng của một số người tu thiền định và của chính những người viết bài viết này.

Chúng ta thử giới thiệu một giả thuyết gọi là “Lý thuyết cấu tạo tâm" hay đúng hơn phải gọi là "Lượng tử tâm cơ học" hoặc "Lượng tử tâm động học". Theo những tài liệu cổ thì số lượng tâm có khoảng gần 200. Tâm được mô tả như là những viên gạch xây dựng lên thế giới thực thể ở bất cứ cảnh giới nào, chỉ khác nhau về chủng loại và số lượng, cũng giống như các nguyên tố hóa học, hạ nguyên tử (subatom, những hạt cấu tạo nên nguyên tử) đã xây dựng lên thế giới vật chất chung quanh chúng ta. Tâm có lẽ là đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được.

Khoa học ngày nay biết rõ về tên và số lượng của các nguyên tố hóa học cũng như định luật tương tác của chúng. Nhưng người ta lại không có câu trả lời về tên và số lượng tâm mặc dù đã mày mò qua nhiều năm tháng. Đó là chưa kể đến việc tương tác của các tâm lại khác với hóa học và với điện từ học. Nếu chúng ta mặc định là tâm cũng có điện dương và điện âm thì các tâm lại tuân theo một định luật khác gọi là định luật tương ưng, cụ thể thiện tâm vương thì có khoảng 35 tâm sở vệ tinh.

Đơn vị tâm hàm chứa rất nhiều năng lượng: Dục giới, Sắc giới, Thiện, Không thiện, Dị thục (tạo ra nhân quả), Duy tác (không tạo ra nhân quả) v.v… Vẫn theo những tài liệu nói trên, tâm có một vai trò hết sức quan trọng. Có tài liệu đã mô tả tâm là: ”Tâm đứng đầu, tâm tạo tác tất cả”. Theo truyền thống Vi Diệu Pháp, thì tâm sanh ra vật chất (cũng giống như năng lượng sanh ra khối lượng, trường sanh ra chất). Với con người như chúng ta, thì người ta cho là năng lượng của tâm đã tạo ra phần ngoài thể xác của chúng ta. 

Một tâm vương không bao giờ hiện hữu một mình, chúng luôn luôn được bao bọc bởi rất nhiều tâm sở. Đời sống của tâm cũng tuân theo qui luật: Sinh,Trụ, Hoại, Diệt. 

III. TỔ HỢP TÂM CỦA MỘT THỰC THỂ và VẤN ĐỀ NHẬP ĐỊNH:
Không có tài liệu thần học của bất cứ trường phái nào lại giống như tài liệu truyền thống Phật Giáo Vi Diệu Pháp. Ở đây không có: Thượng Đế, Thần Linh, Bí Tích, Mặc Khải hoặc phép lạ v.v… Cũng giống như các bộ môn khoa học bất kỳ, ở phần đầu chúng ta cũng phải chấp nhận một số tiên đề mang tính chất định đề (Postulate). Kế tiếp, mọi việc được trình bày một cách khá duy vật và cơ học theo một trình tự của nguyên lý đồng nhất, như thế mọi người bình thường đều có thể hiểu được. 

Vẫn theo Vi Diệu Pháp, thì có rất nhiều cảnh giới khác nhau, số lượng có thể không đếm được, vì có các thực thể có số lượng cấu tạo tâm nhiều gần 200 tâm, có thực thể khác thì chỉ có 2 hoặc 3 tâm. Do đó những thực thể có số lượng tâm và chất lượng tâm khá giống nhau sẽ tạo ra một cõi, một cảnh giới theo định luật tương ưng của tâm. Ở các cõi  giới khác nhau thì thời gian trôi đi sẽ khác nhau. 

Sau đây chúng ta hãy quan sát một bảng mô tả tổng quát về các cảnh giới. 
Có bốn cảnh giới cơ bản là: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, Niết bàn.
- Dục giới gồm 11 cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A tu la, Loài người, Tứ đại thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ ma, Đâu xuất, Hóa lạc, Tha hóa tự tại. 
- Sắc giới gồm 4 cõi: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. 
- Vô sắc giới gồm 4 cõi: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Theo mô hình nêu trên, thì con người sống trong một trong 7 cảnh thiên. Lối sắp xếp này mang nặng tính chất minh họa, chúng ta tạm thời chấp nhận như một định đề.
Vẫn theo truyền thống Vi Diệu Pháp, cõi người mà chúng ta đang sinh hoạt không có gì đáng để khuyến khích và ca ngợi, kể cả những cõi cao hơn, sống lâu hơn, hạnh phúc hơn … cũng vậy. Thật thế, qui luật Sanh, Lão, Bệnh, Tử có hiệu lực trên tất cả các thực thể. Đó là tấn bi kịch đau đớn nhất cho tất cả các thực thể.
Cách duy nhất để tránh khỏi tai họa này là tu thiền định, một công cụ có khả năng chấm dứt các phiền não. Không có một thần linh, một Thượng Đế nào có thể giúp được mình, chính bản thân các vị thần tiên cũng bị Sanh, Lão, Bệnh, Tử chi phối. Do đó, van vái, cầu xin, cúng tế cũng chẳng giải quyết được gì, vì định luật nhân quả của thế giới tự nhiên là một định luật khách quan không phân biệt đối xử với tất cả các thực thể ở các cõi, các cảnh giới.
Để tránh trình bày một cách quá lý thuyết về lộ trình của tâm của người tu thiền định, chúng ta thử giản lược bằng 3 phần nêu sau: 
1. Con người là một tập hợp khoảng gần 200 đơn vị tâm, những tâm này luôn luôn chuyển động. Tuy nhiên, lại có một số tâm hay vượt ra ngoài tầm kiểm soát của con người. Thật sự những tâm này chính là bản năng bảo tồn của con người, nếu không có nó, loài người không thể tồn tại và phát triển, nhưng Vi Diệu Pháp lại coi những tâm này là Bất Thiện Tâm. 
2. Khi tu thiền định thì có khoảng 5 cho đến 2 tâm chánh (Tầm, Tứ, Nhất Tâm, Hỉ, Lạc), cộng với ít nhất là 35 tâm sở, gồm có: 22 Tịnh quang tâm sở, 7 Biệt hành tâm sở, 6 Biệt cảnh tâm sở. Đến khi thực sự nhập định, thì chỉ còn có 2 tâm: Nhất Tâm và Lạc. 
3. Bản chất của thiền định theo phần trình bày trên, rõ ràng chỉ là việc loại bỏ hầu hết các loại tâm không cần thiết cho sự tồn tại của một thực thể. Hiện tượng này chỉ xẩy ra trong lúc nhập định, khi đi ra khỏi trạng thái nhập định thì số lượng tâm trở lại trạng thái vốn có của mình. Mặc dù số lượng tâm không biến đổi là bao, nhưng người tu thiền định trải nghiệm qua những lúc nhập định có thay đổi lớn lao về tâm lý. Tâm lý này người ta cũng tìm thấy ở những người cận tử. Để kết luận bài này, chúng tôi xin được đề xuất một phương trình như sau: 

Một thực thể tương tác với một lực hoặc một năng lượng nào đó đủ mạnh thì sẽ chuyển biến và chuyển qua các chiều không gian khác. 
Tác giả: CTR
http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2012/09/i.html