Cuộc HỌP BÁO của Tiêu Cục Xuyên Vân Kiếm Pháp (1)
- Ðịa điểm: Ðộng Ðình Hồ, một thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc. Diện tích lệ thuộc vào từng mùa, bình thường có diện tích khoảng gần 3.000 cây số vuông, nhưng đến mùa mưa lũ tăng lên 20.000 cây số vuông. Ðây cũng là hồ điều hòa của sông Dương tử hay còn gọi là Trường Giang. Ðộng Ðình Hồ là một trong 4 hồ nước ngọt lớn nhất của Trung Quốc. Vẻ đẹp của địa danh này thường được nhắc đến trong văn thơ đời nhà Tống. Ở Giữa hồ có một hòn đảo với 72 ngọn núi. Có lẽ vì cảnh trí hoang sơ, cô tịch của nơi này nên ngày xưa thường được các đạo sĩ chọn làm nơi ẩn tu
Có người cho là dân tộc Việt có nguồn gốc từ hồ Ðộng Ðình này. Tiêu cục Xuyên Vân kiếm pháp chọn địa điểm này để họp báo … để đề phòng khủng bố!
- Thời điểm: Bối cảnh cuộc họp báo xảy ra khoảng 600 trăm năm sau Công Nguyên, sau khi Ðạo Xướt và Thiện Ðạo (có lẽ là truyền nhân kế thừa chính thống) của Tuệ Viễn (hay Huệ Viễn) đã truyền bá Tịnh Độ vào VN. Chúng ta còn phải kể thêm một tông phái nữa của Trung Quốc là Thiền Tông. Khi nói tới tông phái này, thì phải nói ngay tới đại biểu là Huệ Năng, tác giả và kiến trúc sư của Thiền Đốn Ngộ. Cụ thể là "Tự Tâm thị Phật". Chẳng bao lâu tông phái này đã chia ra 3 hệ phái khác nhau, sau đó lại chia nhỏ ra nữa: Cơ Phong, Bổng Hát, Ngữ Lục, Khán Thoại Đầu … Thiền Trung Quốc khi du nhập vào Nhật lại chia ra ít nhất 24 trường phái: Trà Thiền, Trà Đạo v.v... Khi du nhập vào Việt Nam cũng sanh ra vô số trường phái không kể hết: Trúc Lâm lâm tế … tất cả cũng là Trường phái Thiền Tông thuần túy của Trung Quốc; không liên quan gì đến Phật giáo Ấn Độ
Theo tác giả Nguyễn Tuệ Chân, Phật giáo Trung Quốc về mặt hình thái, phương pháp và hệ thống lý luận đều khác với Phật Giáo Ấn Độ. Vẫn theo tác giả này, lý do tạo ra khác biệt là vì ý thức tâm lý dân tộc, phương thức tư tưởng và tập quán của người TQ. Hiện còn rất nhiều trường phái của TQ đã phát triển ở VN.
- Mục đích: Là nơi làm quen, tạo mối quan hệ, trao đổi, đàm luận.
- Thành phần tham dự: Xin được trân trọng giới thiệu các thành phần tham dự là đại diện của:
•Giới giang hồ Thiền Định đầy hiểm ác.
•Nhật báo: "Tiếng Nói Vô Thinh" của cảnh Vô Sắc.
•Tuần báo: "Thời Trang 2013" của cảnh Hữu Sắc.
•Trường phái Quỳ Hoa Bảo Điển với lối tu tập nổi tiếng "Vung tay tự thiến xưng hùng thiên hạ”.
•Trường phái Vô Chiêu là đại diện đất nước Tịnh Thổ của Huệ Viễn, (sử dụng hộ chiếu của nước thứ hai). Và còn rất nhiều khách quí khác.
- Nội qui: Quý vị đang là người tu tập, trước khi chứng Phật, Tiên Thánh thì hãy là công dân tốt. Chúng tôi yêu cầu tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của VN và luật pháp quốc tế. Vì phép lịch xin quí vị điều chỉnh cell phone ở chế độ rung.
CUỘC HỌP BÁO BẮT ÐẦU
Trong trang phục vét đen, sơ mi đỏ của nhà thiết kế Pháp siêu nổi tiếng Yves Saint Laurent, mái tóc đen bóng bới cao gọn gàng trên đỉnh đầu rất thời trang. Tam Tiều Thư với vóc dáng nhanh nhẹn và khỏe mạnh, thái độ nghiêm trang nhưng cực kỳ vui vẻ, là phát ngôn viên chính thức của tiêu cục XVKP. Khi cô xuất hiện trước mặt cử toạ, tiếng vỗ tay vang rần.
- Tam Tiều Thư (tươi cười): Gút mo ning ê vê ri bo đi, bông rua, gút tần tác … đăng cờ xe, xin chào tất cả quí vị, xin cám ơn quí vị!
To day, ai út lai in tru du sơ … permettez-moi …, xin phép quí vị, em xin tự giới thiệu, em là Tam Tiểu Thư, người phát ngôn chính thức của tiêu cục XVKP (tiếng vỗ tay một lần nữa lại vang lên).
- Tâm Như: Tam Tiểu Thư, chị là Tâm Như đây! Em nhớ ra chị chưa?
- Tam Tiều Thư: Hai, chị Tâm Như, I'm very glad to see you, sorry, I can't speak Chinese.
- Một cử tọa đứng lên: Thưa Tam Tiểu Thư, xin cho tôi bắt đầu. Tôi có một câu hỏi mà có lẽ nhiều người cũng thắc mắc như tôi: CTR là ai? Ông Tổng Quản là ai? Cuốn tạp thư là của tác giả nào?
- Tam Tiểu Thư: Em xin thưa cùng quí vị, tất cả những nhân vật nói trên đều là sản phẩm tưởng tượng, hư cấu. Giấc mơ muôn đời của người thực hành Thiền Định là mong mỏi có ấn chứng, có thành quả thực tế. Trong khi chờ đợi ấn chứng thì giấc mơ chỉ là giấc mơ thôi. Chúng ta hãy xem những bài viết này thay thế cho lòng mong muốn giấc mơ trở thành sự thật.
Còn về cuốn tạp thư là như thế này: có lần CTR đi chợ trời sách bán sale off 80%, tình cờ thấy một cuốn sách cũ kỹ, bìa rách te tua, bên trong thì trang còn trang mất. Tò mò đọc vài trang thấy có vẻ hay hay nên mua về đọc để giải sầu. Tiếc là cái trang mà để tên tác giả thì lại không còn nữa (chắc bị xé đem gói xôi!)
- Hoang Vu: Gần đây tôi tập Thiền theo phương pháp của CTR, tôi đã bắt đầu biết những trạng thái hụt hẫng như khi đi máy bay, bay vào khoảng không khí loãng (vùng có áp xuất khí quyển thấp) là thế nào?
- Nặc danh: Mình cũng là một độc giả theo dõi những bài viết của CTR … cám ơn chân thành đến ông tổng quản đã dầy công nghiên cứu.
- Tam Tiểu Thư: (ánh mắt long lanh, nụ cười nhẹ nhàng, dịu dàng nói): Em xin cám ơn quí vị đã động viên blog CTR. Những lời lẽ khiêm tốn, tình cảm chân thành làm cho em rất xúc động!
Trước nhất em xin đính chính, hiệu chỉnh lại cho đúng với sự thật. Quí vị hãy tin đây là lời nói chân thành từ trái tim, không phải sáo ngữ, khiêm tốn giả tạo. CTR không hề có một phương pháp tu Thiền Định nào của riêng mình cả. Thật sự CTR chỉ làm công việc như một chiếc cầu nối, là dùng văn chương chữ nghĩa để minh họa phương pháp tu Thiền Định của Phật Giáo Nguyên Thủy và phối hợp ít nhiều với những lý thuyết của những bộ Luận thuộc trường phái Nguyên Thủy.
Thật ra Thiền Tông thực sự là của Trung quốc, tác giả là ngài Huệ Năng với pháp môn Đốn Ngộ và tài liệu là "Đàn Kinh". Với tư tưởng chủ yếu là "Tự Tâm là Phật" đã làm lu mờ cách tu tập Thiền Định của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Thiền định của Phật giáo nguyên thủy là một lối tu đòi hỏi rất nhiều yếu tố đối với người tu Thiền Định. Nó xuất phát từ thực tiễn, và được phát biểu thành công thức bất tử là "Giới, Ðịnh, Huệ". Công thức này như trên đã nói không phải xuất phát từ đàm luận mà từ kinh nghiệm thiền định. Theo quan điểm của trường phái này, căn cứ trên thực tế, Chánh Định không thể thành tựu nếu còn duy trì một cuộc sống: Giết chóc, Trộm cắp, Dâm đãng, Nói dối … Người ta không thể tin là người vẫn còn giữ những thói quen nói trên, có thể đắc Thiền Định ở cấp độ thấp nhất là Sơ Thiền Hữu Sắc. Ai cũng biết ở cảnh giới này, không hấp thụ dưỡng chất, không có nam nữ để quan hệ … cho nên các bộ phận để làm công việc này theo thuyết tiến hóa đã tự đào thải. Vì thế, tự cho là mình mở được "Con Mắt Thứ Ba" chỉ ở cấp độ Thiền thấp nhất … là nằm mơ giữa ban ngày. "Con Mắt Thứ Ba" dạng này, thậm chí xuất hiện thấp hơn cả cảnh giới con người.
- Kính thưa Hoang Vu, Nặc Danh, trạng thái hụt hẫng và còn nhiều trạng thái khác, đó là cảm giác đầu tiên khi hành thiền. Con Mắt Thứ Ba, kỹ thuật Xuất Hồn, kỹ thuật Thiền Định hy vọng có dịp trình bày cùng quí độc giả.
Một lần nữa mong quí độc giả biết cho các nhân vật trong blog CTR chỉ là sản phẩm của tưởng tượng không có thật. Tam Tiểu Thư xin cám ơn chị Tâm Nhu, Hoang Vu, Nặc Danh đã đặt câu hỏi.
- Tâm Như: Ủa! Sao mình không thấy đại diện cho trường phái của ngài Huệ Viễn thuộc nước Tịnh Thổ nhỉ?
- Tam Tiểu Thư: Em xin lỗi trước khi đưa ra ý kiến này, nếu có gì sai, mong chị Tâm Như và quí vị chỉ giáo. Theo em biết, quí vị muốn lên nước Tịnh Thổ thì cách tu chủ yếu dùng Niệm tên Phật làm động lực bên trong, dùng nguyện lực Adida Phật làm động lực trợ duyên bên ngoài. Trong ngoài tương ứng, nhân duyên hòa hợp, vãng sanh vào thế giới Cực Lạc. Cũng cần nhắc lại, lúc đầu Tuệ Viễn chủ trương Thiền Tịnh song tu, nhưng cuối cùng Thiền Định đã bị rơi vào quên lãng.
Theo thiển ý của em, cư dân vãng sanh về Tịnh Thổ không phải sử dụng thực lực tu hành để có được tấm hộ chiếu hợp pháp nhập cảnh vào nước Tịnh Thổ. Với cách tu vừa trình bày ở trên, thì dường như người ta đã sử dụng hộ chiếu của một nước thứ hai, thứ ba là niệm Phật và chép kinh.
Ðây chỉ là quan điểm riêng của em chắc chắn rất nhiều thiếu sót, mong quí vị hào phóng rộng lượng chỉ bảo, em rất biết ơn! Thank you! Danke sehr!
- Nặc Danh: Hình mới (của blog) đẹp lắm, nhưng nhìn giống như bảng quảng cáo Milo quá, không có mùi thiền vị chút nào!
- Tam tiểu Thư: Xin chân thành cám ơn quí Nặc Danh đã bỏ thời gian ghé qua trang blog, còn chân tình đóng góp ý kiến xây dựng. Những tấm hình được post lên trang blog, CTR cân nhắc rất kỹ chứ không phải là tình cờ. Tấm hình người phụ nữ khỏa thân thật sự là biểu tượng của DAKINI hay YIDAM. Nó là một nhân vật có lẽ có thật của những người thực chứng Thiền Định sẽ gặp gỡ trên bước đường thiên lý của trường phái Thiền Định. Người tu Thiền Định, thực sự Chứng Định, theo như ngôn từ của Nặc Danh, mà chưa biết mùi vị của Dakini, thì phải tự hỏi lòng mình, thực sự đã đi được quãng đường bao xa trên con đường thiên lý của pháp môn Thiền Định. Nhiều trường phái Thiền Định có đề cập tới nhân vật này với những tên khác nhau. Ở đây em xin phép trình bày cách mô tả nhân vật nói trên của người Tây Tạng. Dakini là "Nổi giận, Thiên nữ, Vũ công, Lõa thể". Mô tả này là ngớ ngẩn và vô nghĩa với người ở ngoài cảnh giới Thiền Định, nhưng với người tu Thiền Định thì Dakini là nguồn cảm hứng, người bảo vệ Chánh Pháp, người che chở và còn hơn thế nữa. Em chỉ còn biết mô tả bằng câu thơ sau đây: "Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay". Chẳng phải ở Tây Tạng, mà bất cứ ở đâu trên thế giới, cũng có người bằng lòng ở lại với Dakini để hưởng thành quả của Thiền Định. Chắc quí Nặc Danh cũng biết, ở cảnh thế gian con người cũng có những bậc quân vương từ bỏ ngai vàng đi theo lối nghĩ của trái tim.
- Rất mong được quí Nặc Danh chỉ bảo thêm, em vô cùng biết ơn!
(Còn tiếp ...)
Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013
Tập 41: Sự thật không che đậy (phần 1)
Xuất Hồn là một công cụ cần thiết & chính đáng của con người vì ai cũng phải chết
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Suốt cả đời chúng ta thường chuẩn bị kỹ lưỡng cho rất nhiều việc, thí dụ như sinh nhật, đám cưới, tân gia, tốt nghiệp ... Thế nhưng có một việc vô cùng quan trọng của đời người thì chẳng ai lo chuẩn bị, thậm chí chẳng ai nghĩ tới. Đó là chuẩn bị cho Cái Chết. Điều này thật kỳ lạ vì người ta thấy cái chết mỗi ngày, nhưng lại nghĩ nó chỉ xảy ra cho người khác mà không bao giờ xảy ra cho chính mình.
- Ông Tổng Quản: Thần chết đối với tất cả các Thực Thể là đồng nghĩa với cõi tuyệt vọng vĩnh hằng. Thần Chết là biểu tượng của chủ thuyết Nhất Nguyên: Khổ đau - tuyệt vọng; còn các Thực Thể lại là biểu tượng của chủ thuyết Nhị Nguyên: Khổ đau - hạnh phúc và hy vọng.
Mặt tích cực của khoa học hiện đại thì không còn lời nào để ca ngợi vì ai cũng biết. Nhưng mặt tiêu cực thì phải nói rằng khoa học hiện đại là một loại tai họa đối với toàn thể nhân loại, một tội đồ của lịch sử tiến hóa. Người ta hoàn toàn mù tịt về hiểm họa có thật của Thần Chết. Khoa học hiện nay không biết gì về những cảnh giới: Hữu sắc, Vô tưởng, Vô sắc … ngoài những dự đoán bằng lý thuyết kiểu: Rối lượng tử - Vũ trụ song song - Vũ trụ toàn ảnh …
- Tam Tiểu Thư: Khi nói chuyện với ông, tôi thấy suy nghĩ của ông rất lạ. Ông rất hay nghĩ về thân phận nhiều đau khổ của con người. Dường như ông biết rằng ngoài cõi người, còn nhiều cõi khác có hạnh phúc cao hơn. Tam Tiểu Thư này thì nghĩ rằng dạng loài người là cư dân duy nhất trong vũ trụ, còn môi trường thế giới tự nhiên khách quan được cấu tạo bởi những yếu tố hóa học quá quen thuộc, có thể có thêm những nguyên tố hóa học chưa biết tới; trong đó nguyên tố hào phóng nhất là hydrogen. Thế nhưng tôi vẫn đồng ý với ông điều này: Từ ngàn xưa đến giờ, trước cái chết của 6, 7 chục tỷ người trên trái đất, thì con người chỉ có một phản ứng tiêu cực duy nhất là than khóc tiếc thương. Có đôi lúc tôi cũng ngạc nhiên tự hỏi tại sao con người lại không cố gắng tìm ra phương án tích cực để đối phó với Thần Chết. Ông tra cứu trong Tạp Thư xem có ai tìm được phương án nào không?
- Ông Tổng Quản: Theo huyền sử, có lẽ duy nhất chỉ có ngài Sakya Muni là không có thái độ tiêu cực đối với Thần Chết. Ngài đã triển khai một kỹ thuật mang tính chất chủ động và tích cực đối với Thần Chết. Chính thái độ này có lẽ là nguồn cảm hứng vô tận (muse), là tiền đề cho giải pháp tích cực đối phó với Thần Chết.
Nói tóm lại, cái Chết là sự đau đớn tột cùng của một Thực Thể chẳng phân biệt cảnh giới nào. Cho dù quan niệm khổ đau và hạnh phúc ra sao đi nữa, thì tử thần vẫn là kẻ thù truyền kiếp - với ý nghĩa chính xác nhất - của con người và các Thực Thể.
- Tam Tiểu Thư: Cá nhân tôi thì tôi cảm thấy mình không sợ chết lắm do đã quen sống đời sống trên lằn tên mũi đạn. Cái mà tôi sợ nhất là sự chia lìa tình cảm với những gì mình yêu thương.
- Ông Tổng Quản: Trong cuộc sống tình cảm của bất kỳ một con người nào, thì thiên đường cũng là sự lên ngôi của một cuộc tình tích cực, và địa ngục là sự lãng mạn của cuộc tình quá không may, tín hiệu cuối cùng là tử biệt:
“Dưới bia mộ đá thiên thần khóc cho tình yêu chúng ta”
“I’ ve hungered for your touch along lonely time”
“I find you asleep in the deep of my heart”
Trong não nề của tuyệt vọng, con người hy vọng vào lòng độ lượng và hào phóng của Thần Linh.
“God speed your love to me”
- Tam Tiểu Thư: Ông đã từng nói nhiều lần về xuất hồn. Rõ ràng xuất hồn là một công cụ cần thiết và chính đáng của con người vì ai cũng phải chết. Thế nhưng sau đó ông lại nói rằng: Kỹ thuật Xuất Hồn thật sự có thể là một công cụ hữu hiệu tạm thời giúp con người lánh mặt Thần Chết trong một thời gian nhất định nào đó mà thôi. Tại sao lại như vậy?
- Ông Tổng Quản: Xuất hồn là một thao tác mang nặng tính chất kỹ thuật để tách cái tôi một cách chủ động ra khỏi cơ thể vật lý. Việc này có thể triển khai trong lúc Thiền Định, khi cơ thể vật lý vì lý do nào đó không còn sử dụng được nữa (hư hỏng do tai nạn, hư hỏng do độc tố xâm nhập với hàm lượng quá cao, vượt qua ngưỡng chịu đưng của cơ thể ...)
Mặc dù cùng là chủng loại con người; nhưng ai cũng biết đời sống của người này và người khác lại vô cùng khác nhau. Chính điều này phản ảnh cho chúng ta biết là cấu tạo: Tâm, Sắc, Nghiệp lực … mang tính chất cá biệt; không ai giống ai. Khi xuất hồn thành công, thì người ta sẽ đi đâu về đâu? Câu trả lời là tùy theo cấu tạo của từng cá nhân. Trong trạng thái Xuất Hồn, do tác động của Định Luật Tương Ưng thì cá nhân đó sẽ tự động đi tới cảnh giới tương thích.
- Tam Tiểu Thư: Bây giờ thí dụ tôi Xuất Hồn thành công và đến được những cảnh giới cao hơn thì Thần Chết có biết không ông? Nói cách khác là ở cảnh giới khác thì người ta có chết hay không?
- Ông Tổng Quản: Dù ở bất cứ cảnh giới nào: Hữu sắc, Vô tưởng, Vô sắc … hễ có sanh thì có diệt. Đó là tiến trình không thể đảo ngược và là một sự thật vĩnh cửu. Tuổi đời ở những cảnh giới khác nhau thì có thể dài ngắn khác nhau, nhưng rồi cũng đến lúc hết vòng đời. Cái chết rồi sẽ đến. Chu trình này cứ tiếp diễn như thế. Khái niệm Luân Hồi Sanh Tử đã được biết đến từ lâu tại Ấn Độ.
- Tam Tiểu Thư: Thôi tôi hiểu ra tại sao ông nói xuất hồn chỉ là biện pháp kỹ thuật tình thế, tạm thời lánh mặt thần chết. Nhưng tôi vẫn còn một thắc mắc: Xuất Hồn có đồng nghĩa với Giải Thoát không?
- Ông Tổng Quản: Câu trả lời là:
"Xuất Hồn không liên quan gì đến Giải Thoát cả.
Cô đừng ngộ nhận Xuất Hồn là đồng nghĩa với Giải Thoát nhé."
Từ ngữ Giải Thoát theo truyền thống Phật Giáo mang tính chất đặc thù. Đây là cuộc đấu tranh biện chứng nội tâm vô cùng gay gắt, để cuối cùng vỡ lẽ được sự thật về tính chất vô thường, vô ngã của vạn vật. Từ đây, ngọn lửa tham ái đã tự tàn lụi, phiền não hoàn toàn chấm dứt.
Vẫn theo quan điểm của trường phái Phật Giáo với quan điểm nêu trên, nếu ai đó chỉ cần quán triệt, giải quyết tư tưởng, không cần sự trợ giúp của kỹ thuật Thiền Định, vẫn có thể đến bờ giải thoát là Niết Bàn. Ai cũng biết: “Gươm trí tuệ đoạn dứt vô minh”.
Ngược lại, vẫn theo quan điểm của Phật Giáo: Thiền Định ở bất cứ cấp độ nào, chẳng phân biệt cảnh giới cao thấp, đều tạo ra nhân là Thiền Thiện Tâm. Nếu đã tạo Nhân thì tất nhiên phải Luân Hồi để hưởng quả là Thiền Thiện Tâm. Nói tóm lại, tu Thiền Định sẽ đưa tới Luân Hồi Sanh Tử một cách chắc chắn, không lầm vào đâu được.
Đọc tới đây nhiều vị sẽ kinh ngạc. Tu Thiền Định đã là một việc làm quá khó, mà lại vẫn đưa tới Luân Hồi Sanh Tử, thì không biết nói làm sao nữa! Dù quý vị có đồng ý hay không, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính chất logic và nhất quán của lý thuyết Phật Giáo.
Một lần nữa rất mong chúng ta không ngộ nhận việc Xuất Hồn và Giải Thoát. Rõ ràng đây là hai việc hoàn toàn khác nhau, là hệ quả Xuất Hồn là một thao tác kỹ thuật, còn Giải Thoát là một trạng thái tư tưởng, của việc đấu tranh nội tâm. Xuất Hồn chỉ có thể là trợ thủ của Giải Thoát và không thể ngược lại.
Nếu giả thuyết là tiểu sử của ngài Sakya Muni có thật, thì có lẽ Ngài là người đầu tiên trong nhân loại, đã sử dụng Thiền Định như một công cụ để Xuất Hồn và bỏ Xác lại thế gian.
- Tam Tiểu Thư: Đề tài xuất hồn hiện nay được quan tâm nhiều lắm ông ơi. Chỉ cần gõ trên bàn phím từ ngữ xuất hồn, có tới trên 8 triệu kết quả chỉ trong vài giây. Tìm kiếm bằng các ngôn ngữ khác cũng cho ra kết quả tương tự.
Để học bộ môn xuất hồn này là chuyện “nhỏ như con thỏ!”. Có rất nhiều tài liệu dưới dạng đã in ra sẵn hoặc dạng video clip. Ở Việt Nam có những lớp dạy tư nhân. Những tài liệu nói chung này đều đưa ra những chuẩn mực tập luyện vô cùng dễ dàng. Những thao tác tinh thần và vật chất dường như như nằm trong tầm tay của tất cả mọi người. Thời gian tập luyện được tính bằng phút. Người ta cho biết chỉ cần thư giãn thoải mái … kiểu ngồi bán già hoặc kiết già, tay bắt ấn Kiết tường. Thông thái như ông mà đi học những lớp này không chừng Xuất Hồn được ngay từ bài dẫn nhập đó.
- Ông Tổng Quản: Theo những tài liệu luận, tài liệu Patanjaly, thì Xuất Hồn được sắp vào dạng Thần Lực, Thần Thông chính qui đó nghe cô. Theo thông tin của những tài liệu nói trên, việc Xuất Hồn chỉ xuất hiện ở trang thái Tứ Thiền Hữu Sắc, qua tiến trình thao tác kỹ thuật goi là Samyama gồm 3 giai đoạn kể sau:
* Dharana / * Dhiana / * Samadhi
Thật vậy, thực tế cho biết hiện tượng Xuất Hồn chỉ có thể xuất hiện khi các Tốc Hành Tâm (Javana) đang được thực hiện.
- Tam Tiểu Thư: Tôi bắt đầu lùng bùng lỗ tai nha ông. Bao nhiêu tài liệu tôi đọc họ đều nói tập Xuất Hồn rất dễ dàng và đơn giản. Ông thì nói hoàn toàn khác. Có mấy ai tu mà đạt được Tứ Thiền Hữu Sắc chứ? Tam Tiểu Thư còn chưa tới nổi Sơ Thiền chứ nói gì Tứ Thiền. Vậy thì Xuất Hồn nào là thật và Xuất Hồn nào là ảo? Tôi nghi là có người Xuất Hồn trong tưởng tượng thôi à. Tôi thì bận rộn lắm nhưng sẽ ráng để ra chút thời gian tập theo cách dễ trước xem có Xuất Hồn ra được không nha ông. Tôi mà thành công với cách tập đơn giản dễ dàng này là coi như lý thuyết của ông phá sản đó. Phương châm sống của tôi là: Nhanh - Gọn - Hiệu quả.
- Ông Tổng Quản: Để đạt hiệu quả tích cực trong việc Xuất Hồn, Thiền Định là một công cụ ắt có và đủ. Dù có thể chúng ta đang theo đuổi các trường phái Thiền Định khác nhau, hoặc giả chúng ta đang có cơ hội thuận lợi để tiếp cận bộ môn Thiền Định, thì việc tìm hiểu thật sự về nền tảng kỹ thuật của bộ môn Thiền Định cũng rất cần thiết. Như đã trình bày ở phần trên, xét về mặt lý thuyết cũng như thực hành, Xuất Hồn không thể vắng bóng Thiền Định. Điều này cũng giống như muốn học làm bác sĩ y khoa, mà lại không học những bộ môn cơ bản: Giải phẩu cơ thể học (anatomie), Sinh lý học (physiologie) ... đó là điều không thể tưởng tượng được!
Ở đây chúng tôi xin đề xuất chọn bộ môn Thiền Định của Phật Giáo Nguyên Thủy và coi như một mẫu mực mặc định qui ước. Sở dĩ chúng ta chọn mẫu này vì đây là một mô hình phổ cập, dễ hiểu nhất. Hầu hết ai cũng am tường thấu triệt.
Chọn Thiền Định làm công cụ cũng chẳng có gì lạ vì nó mang tính chất qui ước và truyền thống. Nhưng chúng ta chỉ chọn lớp Định Tứ Thiền Hữu Sắc mà thôi. Lý do tại sao không chọn Tam Thiền hoặc Không Vô Biên Xứ? Tại sao không chọn kỹ thuật khác mà lại chọn kỹ thuật Samyama? Xin thưa cùng quí vị, đây là câu trả lời:
A. Về mặt lý thuyết:
Ít nhất trong các bộ Luận về đề tài thông tuệ (còn gọi là Thần Lực, Thần Thông) người ta thống nhất với nhau một định đề sau đây: “Thần Thông là hệ quả của Tứ Thiền Hữu Sắc”. Xuất hồn cũng là một dạng Thần Thông. Mặt khác, kỹ thuật Samyama đều được các trường phái chính qui sử dụng, chỉ khác nhau từ ngữ kỹ thuật: Chú tâm, tập trung và liên tục mạnh mẽ, cuối cùng là đạt được kết quả tích cực hoặc vỡ lẽ Sự Thật và đạt được Chân Lý.
B. Về mặt lý luận:
Ở trình độ Tam Thiền Hữu Sắc thì đồng ý là có Sắc, nhưng định lực theo thuật ngữ chuyên môn gọi là muội lược; có nghĩa là yếu đuối. Năng Lượng của Định Lực chưa đủ sức mạnh để thắng được lực tương tác giữa cái Tôi và thân Xác vật lý.
Xin nhắc lại như phần trên đã trình bày, các yếu tố cấu tạo nên con người có tính chất cố hữu lệ thuộc, trộn lẫn, hòa quyện vào nhau, nên việc tách ra một cách chủ động bằng kỹ thuật Thiền Định là một việc làm phản tự nhiên. Nó đòi hỏi một lực phải đủ mạnh để thắng được lực tương tác vốn có của các thành phần cấu tạo nên con người. Hầu hết các trường phái Luận đều đồng ý với nhau rằng chỉ có ở trạng thái Tứ Thiền Hữu Sắc, thì mới đủ sức mạnh để tách cái Tôi ra khỏi thân Xác vật lý.
Xét về mặt lý thuyết, việc này rất hợp logic vì Tứ Thiền Hữu Sắc là đỉnh điểm của thế giới Hữu Sắc. Do đó năng lượng của lớp Thiền Định này hàm chứa sức mạnh cao nhất của thế giới Hữu Sắc. Khả năng của lớp Thiền Định này có vừa đủ năng lượng (chứ không phải là dư ra), để tách cái Tôi ra khỏi thân Xác vật lý.
Không Vô Biên Xứ là lớp Thiền cao hơn Tứ Thiền Hữu Sắc, nhưng lớp Thiền này lại không phù hợp với việc Xuất Hồn. Thực sự là xuất cái Tôi thì cho dù lớp Thiền Định nào không quan trọng, nhưng ở đây chúng ta cần hiểu là do cái Hồn ít nhiều có cấu tạo Sắc, nên xuất cái Tôi và cái Hồn ở trạng thái Thiền Vô Sắc là không phù hợp; vì trong Thiền Vô Sắc thì gần như không còn Sắc nữa. Xuất cái Tôi thì không có vấn đề gì, nhưng do nó vướng víu cái Hồn nên quả thực không ổn!
C. Về mặt thực hành:
Thực tế và hiệu quả là thước đo cho một lý thuyết bất kỳ. Lý thuyết chỉ được coi là đúng khi kết quả tích cực được chứng minh bằng thực tế. Ý đồ thực hiện Xuất Hồn trước hay sau Tứ Thiền Hữu Sắc là một sai lầm đưa đến phản tác dụng.
- Tam Tiểu Thư: Phản tác dụng thế nào ông?
- Ông Tổng Quản: Chúng ta thử mô tả tâm trạng của một người Xuất Hồn. Người đó có thể là bạn hay tôi: Sau những năm tháng tập luyện, thậm chí là thập kỷ, chúng ta có được một nền móng lý thuyết Thiền Định vững chắc, một kỹ thuật xuất hồn đáng tin cậy và một định lực ổn định. Vào một ngày nào đó chúng ta thực hiện việc đi ra khỏi thân xác vật lý. Trong một số lần, việc này được tiến hành đầu xuôi đuôi lọt.
Vào một lần Thiền Định nào đó, do mang tâm trạng tích cực chủ quan và trở nên nôn nóng trong việc Xuất Hồn. Chúng ta không ngờ rằng vì Năng Lượng của Định Lực chưa đạt được đến một giới hạn cần thiết, cho nên việc Xuất Hồn trở nên bấp bênh và làm tâm lý của chúng ta không ổn định. Tâm nghi ngờ đã làm phương hại tới định lực. Tâm lý trở nên lúng túng, chập chờn không rõ ràng. Hệ quả là có thể đưa đến Xuất Định do việc chấp hành các thao tác kỹ thuật không nghiêm túc.
Chúng tôi thiết nghĩ khi quí độc giả đã kiên nhẫn đọc đến những dòng chữ này, thì chắc chắn quí vị phải ít nhiều là người có đam mê và quan tâm một cách nghiêm chỉnh và sâu sắc đến đề tài Xuất Hồn. Đó là chưa kể quý vị còn là người có kiến thức, kinh nghiệm uyên bác về vấn đề Thiền Định.
Cho dù quí vị đang thực hành bất cứ trường phái Thiền Định nào đi nữa, thì để ứng dụng Thiền Định vào việc Xuất Hồn, chúng ta có thể tách Thiền Định ra làm hai mặt khác nhau. Thiền Định có thể tách làm hai phần là Kỹ thuật và Lý thuyết mục đích, nhưng đối với bộ môn Xuất Hồn, thì chỉ cần đến các thao tác kỹ thuật, bất chấp về lý thuyết và mục đích. Vấn đề này chúng ta sẽ quay lại khi đề cập tới bài:
“Mẫu một mô hình xuất hồn tích cực:
Tách cái Tôi một cách hoàn toàn ý thức
ra khỏi thân Xác vật lý bằng
kỹ thuật Thiền Định phổ thông”
Còn tiếp ...
Xuất Hồn là một công cụ cần thiết & chính đáng của con người vì ai cũng phải chết
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Suốt cả đời chúng ta thường chuẩn bị kỹ lưỡng cho rất nhiều việc, thí dụ như sinh nhật, đám cưới, tân gia, tốt nghiệp ... Thế nhưng có một việc vô cùng quan trọng của đời người thì chẳng ai lo chuẩn bị, thậm chí chẳng ai nghĩ tới. Đó là chuẩn bị cho Cái Chết. Điều này thật kỳ lạ vì người ta thấy cái chết mỗi ngày, nhưng lại nghĩ nó chỉ xảy ra cho người khác mà không bao giờ xảy ra cho chính mình.
- Ông Tổng Quản: Thần chết đối với tất cả các Thực Thể là đồng nghĩa với cõi tuyệt vọng vĩnh hằng. Thần Chết là biểu tượng của chủ thuyết Nhất Nguyên: Khổ đau - tuyệt vọng; còn các Thực Thể lại là biểu tượng của chủ thuyết Nhị Nguyên: Khổ đau - hạnh phúc và hy vọng.
Mặt tích cực của khoa học hiện đại thì không còn lời nào để ca ngợi vì ai cũng biết. Nhưng mặt tiêu cực thì phải nói rằng khoa học hiện đại là một loại tai họa đối với toàn thể nhân loại, một tội đồ của lịch sử tiến hóa. Người ta hoàn toàn mù tịt về hiểm họa có thật của Thần Chết. Khoa học hiện nay không biết gì về những cảnh giới: Hữu sắc, Vô tưởng, Vô sắc … ngoài những dự đoán bằng lý thuyết kiểu: Rối lượng tử - Vũ trụ song song - Vũ trụ toàn ảnh …
- Tam Tiểu Thư: Khi nói chuyện với ông, tôi thấy suy nghĩ của ông rất lạ. Ông rất hay nghĩ về thân phận nhiều đau khổ của con người. Dường như ông biết rằng ngoài cõi người, còn nhiều cõi khác có hạnh phúc cao hơn. Tam Tiểu Thư này thì nghĩ rằng dạng loài người là cư dân duy nhất trong vũ trụ, còn môi trường thế giới tự nhiên khách quan được cấu tạo bởi những yếu tố hóa học quá quen thuộc, có thể có thêm những nguyên tố hóa học chưa biết tới; trong đó nguyên tố hào phóng nhất là hydrogen. Thế nhưng tôi vẫn đồng ý với ông điều này: Từ ngàn xưa đến giờ, trước cái chết của 6, 7 chục tỷ người trên trái đất, thì con người chỉ có một phản ứng tiêu cực duy nhất là than khóc tiếc thương. Có đôi lúc tôi cũng ngạc nhiên tự hỏi tại sao con người lại không cố gắng tìm ra phương án tích cực để đối phó với Thần Chết. Ông tra cứu trong Tạp Thư xem có ai tìm được phương án nào không?
- Ông Tổng Quản: Theo huyền sử, có lẽ duy nhất chỉ có ngài Sakya Muni là không có thái độ tiêu cực đối với Thần Chết. Ngài đã triển khai một kỹ thuật mang tính chất chủ động và tích cực đối với Thần Chết. Chính thái độ này có lẽ là nguồn cảm hứng vô tận (muse), là tiền đề cho giải pháp tích cực đối phó với Thần Chết.
Nói tóm lại, cái Chết là sự đau đớn tột cùng của một Thực Thể chẳng phân biệt cảnh giới nào. Cho dù quan niệm khổ đau và hạnh phúc ra sao đi nữa, thì tử thần vẫn là kẻ thù truyền kiếp - với ý nghĩa chính xác nhất - của con người và các Thực Thể.
- Tam Tiểu Thư: Cá nhân tôi thì tôi cảm thấy mình không sợ chết lắm do đã quen sống đời sống trên lằn tên mũi đạn. Cái mà tôi sợ nhất là sự chia lìa tình cảm với những gì mình yêu thương.
- Ông Tổng Quản: Trong cuộc sống tình cảm của bất kỳ một con người nào, thì thiên đường cũng là sự lên ngôi của một cuộc tình tích cực, và địa ngục là sự lãng mạn của cuộc tình quá không may, tín hiệu cuối cùng là tử biệt:
“Dưới bia mộ đá thiên thần khóc cho tình yêu chúng ta”
“I’ ve hungered for your touch along lonely time”
“I find you asleep in the deep of my heart”
Trong não nề của tuyệt vọng, con người hy vọng vào lòng độ lượng và hào phóng của Thần Linh.
“God speed your love to me”
- Tam Tiểu Thư: Ông đã từng nói nhiều lần về xuất hồn. Rõ ràng xuất hồn là một công cụ cần thiết và chính đáng của con người vì ai cũng phải chết. Thế nhưng sau đó ông lại nói rằng: Kỹ thuật Xuất Hồn thật sự có thể là một công cụ hữu hiệu tạm thời giúp con người lánh mặt Thần Chết trong một thời gian nhất định nào đó mà thôi. Tại sao lại như vậy?
- Ông Tổng Quản: Xuất hồn là một thao tác mang nặng tính chất kỹ thuật để tách cái tôi một cách chủ động ra khỏi cơ thể vật lý. Việc này có thể triển khai trong lúc Thiền Định, khi cơ thể vật lý vì lý do nào đó không còn sử dụng được nữa (hư hỏng do tai nạn, hư hỏng do độc tố xâm nhập với hàm lượng quá cao, vượt qua ngưỡng chịu đưng của cơ thể ...)
Mặc dù cùng là chủng loại con người; nhưng ai cũng biết đời sống của người này và người khác lại vô cùng khác nhau. Chính điều này phản ảnh cho chúng ta biết là cấu tạo: Tâm, Sắc, Nghiệp lực … mang tính chất cá biệt; không ai giống ai. Khi xuất hồn thành công, thì người ta sẽ đi đâu về đâu? Câu trả lời là tùy theo cấu tạo của từng cá nhân. Trong trạng thái Xuất Hồn, do tác động của Định Luật Tương Ưng thì cá nhân đó sẽ tự động đi tới cảnh giới tương thích.
- Tam Tiểu Thư: Bây giờ thí dụ tôi Xuất Hồn thành công và đến được những cảnh giới cao hơn thì Thần Chết có biết không ông? Nói cách khác là ở cảnh giới khác thì người ta có chết hay không?
- Ông Tổng Quản: Dù ở bất cứ cảnh giới nào: Hữu sắc, Vô tưởng, Vô sắc … hễ có sanh thì có diệt. Đó là tiến trình không thể đảo ngược và là một sự thật vĩnh cửu. Tuổi đời ở những cảnh giới khác nhau thì có thể dài ngắn khác nhau, nhưng rồi cũng đến lúc hết vòng đời. Cái chết rồi sẽ đến. Chu trình này cứ tiếp diễn như thế. Khái niệm Luân Hồi Sanh Tử đã được biết đến từ lâu tại Ấn Độ.
- Tam Tiểu Thư: Thôi tôi hiểu ra tại sao ông nói xuất hồn chỉ là biện pháp kỹ thuật tình thế, tạm thời lánh mặt thần chết. Nhưng tôi vẫn còn một thắc mắc: Xuất Hồn có đồng nghĩa với Giải Thoát không?
- Ông Tổng Quản: Câu trả lời là:
"Xuất Hồn không liên quan gì đến Giải Thoát cả.
Cô đừng ngộ nhận Xuất Hồn là đồng nghĩa với Giải Thoát nhé."
Từ ngữ Giải Thoát theo truyền thống Phật Giáo mang tính chất đặc thù. Đây là cuộc đấu tranh biện chứng nội tâm vô cùng gay gắt, để cuối cùng vỡ lẽ được sự thật về tính chất vô thường, vô ngã của vạn vật. Từ đây, ngọn lửa tham ái đã tự tàn lụi, phiền não hoàn toàn chấm dứt.
Vẫn theo quan điểm của trường phái Phật Giáo với quan điểm nêu trên, nếu ai đó chỉ cần quán triệt, giải quyết tư tưởng, không cần sự trợ giúp của kỹ thuật Thiền Định, vẫn có thể đến bờ giải thoát là Niết Bàn. Ai cũng biết: “Gươm trí tuệ đoạn dứt vô minh”.
Ngược lại, vẫn theo quan điểm của Phật Giáo: Thiền Định ở bất cứ cấp độ nào, chẳng phân biệt cảnh giới cao thấp, đều tạo ra nhân là Thiền Thiện Tâm. Nếu đã tạo Nhân thì tất nhiên phải Luân Hồi để hưởng quả là Thiền Thiện Tâm. Nói tóm lại, tu Thiền Định sẽ đưa tới Luân Hồi Sanh Tử một cách chắc chắn, không lầm vào đâu được.
Đọc tới đây nhiều vị sẽ kinh ngạc. Tu Thiền Định đã là một việc làm quá khó, mà lại vẫn đưa tới Luân Hồi Sanh Tử, thì không biết nói làm sao nữa! Dù quý vị có đồng ý hay không, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính chất logic và nhất quán của lý thuyết Phật Giáo.
Một lần nữa rất mong chúng ta không ngộ nhận việc Xuất Hồn và Giải Thoát. Rõ ràng đây là hai việc hoàn toàn khác nhau, là hệ quả Xuất Hồn là một thao tác kỹ thuật, còn Giải Thoát là một trạng thái tư tưởng, của việc đấu tranh nội tâm. Xuất Hồn chỉ có thể là trợ thủ của Giải Thoát và không thể ngược lại.
Nếu giả thuyết là tiểu sử của ngài Sakya Muni có thật, thì có lẽ Ngài là người đầu tiên trong nhân loại, đã sử dụng Thiền Định như một công cụ để Xuất Hồn và bỏ Xác lại thế gian.
- Tam Tiểu Thư: Đề tài xuất hồn hiện nay được quan tâm nhiều lắm ông ơi. Chỉ cần gõ trên bàn phím từ ngữ xuất hồn, có tới trên 8 triệu kết quả chỉ trong vài giây. Tìm kiếm bằng các ngôn ngữ khác cũng cho ra kết quả tương tự.
Để học bộ môn xuất hồn này là chuyện “nhỏ như con thỏ!”. Có rất nhiều tài liệu dưới dạng đã in ra sẵn hoặc dạng video clip. Ở Việt Nam có những lớp dạy tư nhân. Những tài liệu nói chung này đều đưa ra những chuẩn mực tập luyện vô cùng dễ dàng. Những thao tác tinh thần và vật chất dường như như nằm trong tầm tay của tất cả mọi người. Thời gian tập luyện được tính bằng phút. Người ta cho biết chỉ cần thư giãn thoải mái … kiểu ngồi bán già hoặc kiết già, tay bắt ấn Kiết tường. Thông thái như ông mà đi học những lớp này không chừng Xuất Hồn được ngay từ bài dẫn nhập đó.
- Ông Tổng Quản: Theo những tài liệu luận, tài liệu Patanjaly, thì Xuất Hồn được sắp vào dạng Thần Lực, Thần Thông chính qui đó nghe cô. Theo thông tin của những tài liệu nói trên, việc Xuất Hồn chỉ xuất hiện ở trang thái Tứ Thiền Hữu Sắc, qua tiến trình thao tác kỹ thuật goi là Samyama gồm 3 giai đoạn kể sau:
* Dharana / * Dhiana / * Samadhi
Thật vậy, thực tế cho biết hiện tượng Xuất Hồn chỉ có thể xuất hiện khi các Tốc Hành Tâm (Javana) đang được thực hiện.
- Tam Tiểu Thư: Tôi bắt đầu lùng bùng lỗ tai nha ông. Bao nhiêu tài liệu tôi đọc họ đều nói tập Xuất Hồn rất dễ dàng và đơn giản. Ông thì nói hoàn toàn khác. Có mấy ai tu mà đạt được Tứ Thiền Hữu Sắc chứ? Tam Tiểu Thư còn chưa tới nổi Sơ Thiền chứ nói gì Tứ Thiền. Vậy thì Xuất Hồn nào là thật và Xuất Hồn nào là ảo? Tôi nghi là có người Xuất Hồn trong tưởng tượng thôi à. Tôi thì bận rộn lắm nhưng sẽ ráng để ra chút thời gian tập theo cách dễ trước xem có Xuất Hồn ra được không nha ông. Tôi mà thành công với cách tập đơn giản dễ dàng này là coi như lý thuyết của ông phá sản đó. Phương châm sống của tôi là: Nhanh - Gọn - Hiệu quả.
- Ông Tổng Quản: Để đạt hiệu quả tích cực trong việc Xuất Hồn, Thiền Định là một công cụ ắt có và đủ. Dù có thể chúng ta đang theo đuổi các trường phái Thiền Định khác nhau, hoặc giả chúng ta đang có cơ hội thuận lợi để tiếp cận bộ môn Thiền Định, thì việc tìm hiểu thật sự về nền tảng kỹ thuật của bộ môn Thiền Định cũng rất cần thiết. Như đã trình bày ở phần trên, xét về mặt lý thuyết cũng như thực hành, Xuất Hồn không thể vắng bóng Thiền Định. Điều này cũng giống như muốn học làm bác sĩ y khoa, mà lại không học những bộ môn cơ bản: Giải phẩu cơ thể học (anatomie), Sinh lý học (physiologie) ... đó là điều không thể tưởng tượng được!
Ở đây chúng tôi xin đề xuất chọn bộ môn Thiền Định của Phật Giáo Nguyên Thủy và coi như một mẫu mực mặc định qui ước. Sở dĩ chúng ta chọn mẫu này vì đây là một mô hình phổ cập, dễ hiểu nhất. Hầu hết ai cũng am tường thấu triệt.
Chọn Thiền Định làm công cụ cũng chẳng có gì lạ vì nó mang tính chất qui ước và truyền thống. Nhưng chúng ta chỉ chọn lớp Định Tứ Thiền Hữu Sắc mà thôi. Lý do tại sao không chọn Tam Thiền hoặc Không Vô Biên Xứ? Tại sao không chọn kỹ thuật khác mà lại chọn kỹ thuật Samyama? Xin thưa cùng quí vị, đây là câu trả lời:
A. Về mặt lý thuyết:
Ít nhất trong các bộ Luận về đề tài thông tuệ (còn gọi là Thần Lực, Thần Thông) người ta thống nhất với nhau một định đề sau đây: “Thần Thông là hệ quả của Tứ Thiền Hữu Sắc”. Xuất hồn cũng là một dạng Thần Thông. Mặt khác, kỹ thuật Samyama đều được các trường phái chính qui sử dụng, chỉ khác nhau từ ngữ kỹ thuật: Chú tâm, tập trung và liên tục mạnh mẽ, cuối cùng là đạt được kết quả tích cực hoặc vỡ lẽ Sự Thật và đạt được Chân Lý.
B. Về mặt lý luận:
Ở trình độ Tam Thiền Hữu Sắc thì đồng ý là có Sắc, nhưng định lực theo thuật ngữ chuyên môn gọi là muội lược; có nghĩa là yếu đuối. Năng Lượng của Định Lực chưa đủ sức mạnh để thắng được lực tương tác giữa cái Tôi và thân Xác vật lý.
Xin nhắc lại như phần trên đã trình bày, các yếu tố cấu tạo nên con người có tính chất cố hữu lệ thuộc, trộn lẫn, hòa quyện vào nhau, nên việc tách ra một cách chủ động bằng kỹ thuật Thiền Định là một việc làm phản tự nhiên. Nó đòi hỏi một lực phải đủ mạnh để thắng được lực tương tác vốn có của các thành phần cấu tạo nên con người. Hầu hết các trường phái Luận đều đồng ý với nhau rằng chỉ có ở trạng thái Tứ Thiền Hữu Sắc, thì mới đủ sức mạnh để tách cái Tôi ra khỏi thân Xác vật lý.
Xét về mặt lý thuyết, việc này rất hợp logic vì Tứ Thiền Hữu Sắc là đỉnh điểm của thế giới Hữu Sắc. Do đó năng lượng của lớp Thiền Định này hàm chứa sức mạnh cao nhất của thế giới Hữu Sắc. Khả năng của lớp Thiền Định này có vừa đủ năng lượng (chứ không phải là dư ra), để tách cái Tôi ra khỏi thân Xác vật lý.
Không Vô Biên Xứ là lớp Thiền cao hơn Tứ Thiền Hữu Sắc, nhưng lớp Thiền này lại không phù hợp với việc Xuất Hồn. Thực sự là xuất cái Tôi thì cho dù lớp Thiền Định nào không quan trọng, nhưng ở đây chúng ta cần hiểu là do cái Hồn ít nhiều có cấu tạo Sắc, nên xuất cái Tôi và cái Hồn ở trạng thái Thiền Vô Sắc là không phù hợp; vì trong Thiền Vô Sắc thì gần như không còn Sắc nữa. Xuất cái Tôi thì không có vấn đề gì, nhưng do nó vướng víu cái Hồn nên quả thực không ổn!
C. Về mặt thực hành:
Thực tế và hiệu quả là thước đo cho một lý thuyết bất kỳ. Lý thuyết chỉ được coi là đúng khi kết quả tích cực được chứng minh bằng thực tế. Ý đồ thực hiện Xuất Hồn trước hay sau Tứ Thiền Hữu Sắc là một sai lầm đưa đến phản tác dụng.
- Tam Tiểu Thư: Phản tác dụng thế nào ông?
- Ông Tổng Quản: Chúng ta thử mô tả tâm trạng của một người Xuất Hồn. Người đó có thể là bạn hay tôi: Sau những năm tháng tập luyện, thậm chí là thập kỷ, chúng ta có được một nền móng lý thuyết Thiền Định vững chắc, một kỹ thuật xuất hồn đáng tin cậy và một định lực ổn định. Vào một ngày nào đó chúng ta thực hiện việc đi ra khỏi thân xác vật lý. Trong một số lần, việc này được tiến hành đầu xuôi đuôi lọt.
Vào một lần Thiền Định nào đó, do mang tâm trạng tích cực chủ quan và trở nên nôn nóng trong việc Xuất Hồn. Chúng ta không ngờ rằng vì Năng Lượng của Định Lực chưa đạt được đến một giới hạn cần thiết, cho nên việc Xuất Hồn trở nên bấp bênh và làm tâm lý của chúng ta không ổn định. Tâm nghi ngờ đã làm phương hại tới định lực. Tâm lý trở nên lúng túng, chập chờn không rõ ràng. Hệ quả là có thể đưa đến Xuất Định do việc chấp hành các thao tác kỹ thuật không nghiêm túc.
Chúng tôi thiết nghĩ khi quí độc giả đã kiên nhẫn đọc đến những dòng chữ này, thì chắc chắn quí vị phải ít nhiều là người có đam mê và quan tâm một cách nghiêm chỉnh và sâu sắc đến đề tài Xuất Hồn. Đó là chưa kể quý vị còn là người có kiến thức, kinh nghiệm uyên bác về vấn đề Thiền Định.
Cho dù quí vị đang thực hành bất cứ trường phái Thiền Định nào đi nữa, thì để ứng dụng Thiền Định vào việc Xuất Hồn, chúng ta có thể tách Thiền Định ra làm hai mặt khác nhau. Thiền Định có thể tách làm hai phần là Kỹ thuật và Lý thuyết mục đích, nhưng đối với bộ môn Xuất Hồn, thì chỉ cần đến các thao tác kỹ thuật, bất chấp về lý thuyết và mục đích. Vấn đề này chúng ta sẽ quay lại khi đề cập tới bài:
“Mẫu một mô hình xuất hồn tích cực:
Tách cái Tôi một cách hoàn toàn ý thức
ra khỏi thân Xác vật lý bằng
kỹ thuật Thiền Định phổ thông”
Còn tiếp ...
Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013
Con Mắt Thứ ba: Xuyên Vân kiếm pháp 40 ~ CTR
Tập 40: Trận Chiến Cuối Cùng Armageddon giữa Con Người và Thần Chết (phần 5)
Kỹ Thuật Xuất Hồn chỉ mới đủ để lén lút, dấu mình (stealth), chưa phải là vô hình (invisible) trước Thần Chết
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Nếu mình tập Xuất Hồn thành công là coi như mình tự tại, không còn bị Tử Thần khống chế nữa phải không ông? Nếu đúng vậy thì mình bỏ công tập luyện Xuất Hồn kể ra cũng xứng đáng ông nhỉ?
- Ông Tổng Quản: Chưa đâu cô ơi! Xuất Hồn chỉ là biện pháp tình thế, tạm thời, đối phó, che mắt Thần Chết trong lúc mình đang sống cũng như lúc chết. Nói cách khác, chúng ta chưa lọt ra khỏi sổ đoạn trường của Thần Chết đâu.
- Tam Tiểu Thư: Ông có bằng cớ gì mà nói thế? Bài trước khi ông nói phần “khai đề khúc” của Kỹ Thuật Xuất Hồn, tôi biết chuyện này khó nhưng vẫn còn hy vọng. Bây giờ ông lại nói đây mới chỉ là biện pháp tình thế để đối phó thôi, tôi nghĩ sao mà rắc rối quá. Ôi! Thật tội nghiệp cho cái thân Tam Tiểu Thư của tôi!
- Ông Tổng Quản: Chắc cô còn nhớ lúc Kiều ra đi, dặn dò em gái Thúy Vân:
…
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai,
Nợ tình chưa trả cho ai,
Mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Hồn ở đây được hiểu như là cái Tôi, là chủ nhân của lời thề, của mối tình. Nát thân bồ liễu có lẽ là thân xác vật lý. Nợ tình có thể mô tả như "năng lượng nghiệp lực".Từ đây suy ra chủ nhân của "nợ tình" và "mối tình", di trú từ đời sống này qua đời sống khác. Mặt khác, "nợ tình" và "mối tình" còn nói lên tính chất cấu tạo Tâm của một Thực Thể bất kỳ, cụ thể là của một con người. Những câu thơ nêu trên dường như đã mô tả cấu tạo của một Thực Thể, một con người nào đó bao gồm nhiều thành phần:
* Cái tôi: Hồn.
* Cái Tâm: Mối tình.
* Cái Sắc: Nát thân bồ liễu.
* Năng Lượng Nghiệp Lực: Nợ tình.
- Tam Tiểu Thư: Từ xưa đến giờ, thật tình tôi chỉ biết có mỗi Ngài Sakya Muni là nhập được Niết bàn thôi. Hay là ông xem trong tạp thư đi, may ra mình hiểu được làm cách nào mà Sakya Muni nhập được Niết Bàn thì hay biết mấy!
- Ông Tổng Quản: Theo như Huyền Sử thì dường như Ngài Sakya Muni, ngay từ lúc ban đầu cũng khá vất vả để học tu Thiền Định. Sau đó Ngài phải tập luyện liên tục gần như suốt cả đời mình. Vào phút lâm chung trước khi bỏ xác, Ngài cũng phải sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định, sử dụng một Kỹ Thuật đặc biệt để nhập Niết Bàn. Để thoát ra khỏi vương quốc của Thần Chết, rõ ràng là một bài toán, mà dường như nhân loại không ai giải được.
Nếu tôi không lầm, theo quan điểm của truyền thống Phật Giáo, thì tất cả các Thực Thể, ở tất cả các cõi, các từng trời, cho dù là cõi Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, Vô Sắc, cũng nằm trong sổ của Thần Chết. Xem ra Thần Chết còn lớn hơn cả Thượng Đế! Vẫn căn cứ vào tài liệu của Phật Giáo, thì lúc Sakya Muni tại thế, không ai thoát được danh sách Tử Thần, duy nhất có lẽ chỉ có ngài Sakya Muni, phát minh ra Lý Thuyết và Kỹ Thuật chấm dứt Luân Hồi Sanh Tử.
- Tam Tiểu Thư: Như vậy thì rõ ràng việc xuất hồn đâu có nghĩa là giải thoát đâu. Trong 4 yếu tố cấu thành nên con người, thì mình mới chỉ thoát được cái thân vật chất thôi mà. Xuất được cái Tôi ra khỏi cơ thể vật lý, đã là một công việc vô cùng khó khăn, nhưng đây mới chỉ là bước đầu tiên trên quãng đường còn quá xa, nếu coi Giải Thoát là mục đích để hướng tới.
- Ông Tổng Quản: Cô nói đúng. Bước tiếp theo còn khó khăn hơn nữa mà chúng ta phải giải quyết, chính là vấn đề những cái Tâm. Nó xây dựng lên chính chúng ta.
- Tam Tiểu Thư: Có lẽ không còn cách nào khác là Tôi phải đồng ý với Ông! Tôi nhớ có đọc một tài liệu, hình như là Pháp Cú thì phải, ở phần đầu họ nêu ra những định đề về vần đề cái Tâm, có một câu rất ấn tượng cho tôi "Tâm đứng đầu, tâm tạo tác tất cả". Vật lý thì cho biết "Trường sanh ra Chất", "Năng lượng sanh ra Khối lượng". Tôi hiểu một cách nôm na thì hình như "tinh thần sanh ra vật chất". Nói với riêng ông những hiểu biết của tôi vậy thôi. Tôi e ngại rằng nếu có ai khác biết, họ sẽ cho tôi là khoa học giả tạo.
- Ông Tổng Quản: Cám ơn cô đã đóng góp nhiều thông tin tích cực, giúp cho đề tài thêm phong phú, đa dạng.
Tâm mà chúng ta đề cập ở đây, thì có lẽ không giống bất cứ cái gì người ta thường nghĩ, đối với khoa học cũng như Tôn Giáo. Vấn đề Tâm nhìn ở góc cạnh đề tài chúng ta đang tiếp cận, thì khoa học hiện đại không có bất cứ một lý thuyết nào có thể hỗ trợ cho vấn đề này. Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài cách dựa vào lý thuyết của những bộ Luận có lẽ đã vài ngàn năm tuổi; của tài liệu Patanjali. Ngoài ra còn phải kể thêm đến kinh nghiệm thực tiễn nữa.
- Tam Tiểu Thư: Gần đây tôi thấy ông hay nhắc đến các bộ Luận. Tinh thần của bộ Luận nói về Tâm như thế nào ông? Thật tình khi bàn về Tâm, tôi thấy người ta mô tả tính chất của nó tính chất chung chung, mơ hồ, kiểu văn chương, triết học, huyền bí. Một thí dụ điển hình về Tâm rất nổi tiếng là giai thoại "Niêm hoa thị chúng", cử tọa người hiểu thế này, kẻ hiểu thế khác. Vị này bảo Tâm phải năng lau chùi thì mới trong sáng, còn vị khác lại bảo Tâm trong sáng không cần lau chùi! Không biết quý độc giả của CTR blog thì hiểu thế nào?
- Ông Tổng Quản: Nói về cách mô tả, cách chia chẻ, sắp xếp, hệ thống hóa về Tâm thì các bộ Luận chính là bậc Thầy trong lãnh vực này.
Tâm ở đây nặng về tính chất vật lý và ứng dụng. Các Tâm được coi tương đương như các nguyên tố hóa học, đã xây dựng lên Thế Giới Vật Chất. Thật sự, Tâm ở đây được mang ra để đếm về số lượng, có những Tâm được coi là homogene, heterogene. Cụ thể là Thiện Tâm không có các Bất Thiện Tâm thì có tính chất homogene.
- Tam Tiểu Thư: Ông làm tôi thực sự ngạc nhiên. Cách trình bày về những cái Tâm của ông, dựa trên cơ sở những bộ Luận Phật giáo đúng là mang nặng màu sắc Duy Vật. Ông bàn về Tâm mà chẳng Duy Tâm tí nào. Tâm dưới góc nhìn này cũng chẳng thấy dấu vết của tính chất lãng mạn gì cả. Ông làm gì cũng khác người. Nhìn nhận tâm như ông nói thì có lẽ là tôi mới nghe lần đầu tiên trong đời.
- Ông Tổng Quản: Tam tiểu thư à! Trên thực tế, lúc Thiền Định cũng như Xuất Hồn và kể cả các thao tác khác nữa … thì cái Tôi là chính mình. Trong bất cứ tiến trình nào, thì mình cũng phải giải quyết những cái Tâm. Đó là một cuộc "tranh chấp của nội Tâm, của tình cảm. Tranh chấp giữa lý trí và tình cảm, giữa Thiện Tâm và Bất Thiện Tâm …". Chúng ta có tâm trạng như một người giám đốc, phải giám sát, tìm hiểu để giải quyết vấn đề nhân sự phức tạp và tế nhị khi điều hành công việc.
Bây giờ chúng ta thử quan sát mô hình tiêu biểu của người Nhập Định. Khi bắt đầu Nhập Định, phải cảnh giác với các Bất Thiện Tâm thuộc dòng họ Tham, Sân, Si; trong đó phải đặc biệt chú ý tới Si Tâm là Tâm muội lược. Chúng ta cần tích cực triển khai Thiền Thiện Tâm: Tầm, Tứ v.v... Thế nhưng về góc độ thực hành Thiền Định thì ai cũng biết là khi triển khai những thao tác nói trên, các Bất Thiện Tâm thường quá mạnh, lấn át các Thiện Tâm. Khi chúng ta nhận biết được các đối thủ của mình là Bất Thiện Tâm, cũng chưa chắc làm gì được nó!
Rất nhiều các vị đã tu Thiền Định rất nhiều năm tháng cũng đã không ngờ trên đời lại có những tài liệu gọi là Luận, gọi là Patanjali.
- Tam Tiểu Thư: Tôi cứ tưởng xuất được cái Hồn, cái Tôi là yên ổn rồi. Chúng ta có thể rửa tay gác kiếm ăn mừng chiến thắng theo kiểu con nhà võ. Thật không ngờ con người lại còn một thành phần cấu tạo Tâm, mà phần cấu tạo này có vẻ quá khó khăn. Tôi nghe nói theo tài liệu Vi Diệu Pháp thì có đến mấy trăm cái Tâm, với đủ thứ chủng loại. Nếu phối hợp theo xác xuất, thì đưa đến một con số tổ hợp vô hạn. Những cuộc nói chuyện giữa ông và tôi về vấn đề này chắc không bao giờ chấm dứt.
- Ông Tổng Quản: Đúng thế Tam Tiểu Thư, văn chương của Pháp có câu thơ mà ai cũng biết, tôi xin phỏng dịch:
“Trái tim có những lý lẽ, mà lý lẽ không biết tới”
Trái tim (Le coeur) ở đây chúng ta hiểu là tình cảm, nó không chịu tuân theo quy luật logic nào cả. Chính vì lý do này mà người Raja Yoga phải chia ra làm 3 giai đoạn để khắc phục tình trạng nói trên:
* Điều tức.
* Điều thân.
* Điều tâm.
- Tam Tiểu Thư: Tôi hỏi nhỏ ông câu này nhé: phải làm sao để bảo được các Tâm của mình, làm chủ được nó, nó phải nằm dưới sự kiểm soát của tôi, không cho nó nổi loạn?
- Ông Tổng Quản: Tôn Tử vẫn đúng kể cả trong trường hợp cai trị cái Tâm "Biết mình, và biết những cái Tâm”. Mình phải học, hiểu biết về những cái Tâm, đó là cách duy nhất.
Những tài liệu luận của trường phái Phật Giáo chính là kho báu vô giá, là bí kíp có một không hai, đang chờ đợi chúng ta khám phá.
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Kỹ Thuật Xuất Hồn chỉ mới đủ để lén lút, dấu mình (stealth), chưa phải là vô hình (invisible) trước Thần Chết
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Nếu mình tập Xuất Hồn thành công là coi như mình tự tại, không còn bị Tử Thần khống chế nữa phải không ông? Nếu đúng vậy thì mình bỏ công tập luyện Xuất Hồn kể ra cũng xứng đáng ông nhỉ?
- Ông Tổng Quản: Chưa đâu cô ơi! Xuất Hồn chỉ là biện pháp tình thế, tạm thời, đối phó, che mắt Thần Chết trong lúc mình đang sống cũng như lúc chết. Nói cách khác, chúng ta chưa lọt ra khỏi sổ đoạn trường của Thần Chết đâu.
- Tam Tiểu Thư: Ông có bằng cớ gì mà nói thế? Bài trước khi ông nói phần “khai đề khúc” của Kỹ Thuật Xuất Hồn, tôi biết chuyện này khó nhưng vẫn còn hy vọng. Bây giờ ông lại nói đây mới chỉ là biện pháp tình thế để đối phó thôi, tôi nghĩ sao mà rắc rối quá. Ôi! Thật tội nghiệp cho cái thân Tam Tiểu Thư của tôi!
- Ông Tổng Quản: Chắc cô còn nhớ lúc Kiều ra đi, dặn dò em gái Thúy Vân:
…
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai,
Nợ tình chưa trả cho ai,
Mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Hồn ở đây được hiểu như là cái Tôi, là chủ nhân của lời thề, của mối tình. Nát thân bồ liễu có lẽ là thân xác vật lý. Nợ tình có thể mô tả như "năng lượng nghiệp lực".Từ đây suy ra chủ nhân của "nợ tình" và "mối tình", di trú từ đời sống này qua đời sống khác. Mặt khác, "nợ tình" và "mối tình" còn nói lên tính chất cấu tạo Tâm của một Thực Thể bất kỳ, cụ thể là của một con người. Những câu thơ nêu trên dường như đã mô tả cấu tạo của một Thực Thể, một con người nào đó bao gồm nhiều thành phần:
* Cái tôi: Hồn.
* Cái Tâm: Mối tình.
* Cái Sắc: Nát thân bồ liễu.
* Năng Lượng Nghiệp Lực: Nợ tình.
- Tam Tiểu Thư: Từ xưa đến giờ, thật tình tôi chỉ biết có mỗi Ngài Sakya Muni là nhập được Niết bàn thôi. Hay là ông xem trong tạp thư đi, may ra mình hiểu được làm cách nào mà Sakya Muni nhập được Niết Bàn thì hay biết mấy!
- Ông Tổng Quản: Theo như Huyền Sử thì dường như Ngài Sakya Muni, ngay từ lúc ban đầu cũng khá vất vả để học tu Thiền Định. Sau đó Ngài phải tập luyện liên tục gần như suốt cả đời mình. Vào phút lâm chung trước khi bỏ xác, Ngài cũng phải sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định, sử dụng một Kỹ Thuật đặc biệt để nhập Niết Bàn. Để thoát ra khỏi vương quốc của Thần Chết, rõ ràng là một bài toán, mà dường như nhân loại không ai giải được.
Nếu tôi không lầm, theo quan điểm của truyền thống Phật Giáo, thì tất cả các Thực Thể, ở tất cả các cõi, các từng trời, cho dù là cõi Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, Vô Sắc, cũng nằm trong sổ của Thần Chết. Xem ra Thần Chết còn lớn hơn cả Thượng Đế! Vẫn căn cứ vào tài liệu của Phật Giáo, thì lúc Sakya Muni tại thế, không ai thoát được danh sách Tử Thần, duy nhất có lẽ chỉ có ngài Sakya Muni, phát minh ra Lý Thuyết và Kỹ Thuật chấm dứt Luân Hồi Sanh Tử.
- Tam Tiểu Thư: Như vậy thì rõ ràng việc xuất hồn đâu có nghĩa là giải thoát đâu. Trong 4 yếu tố cấu thành nên con người, thì mình mới chỉ thoát được cái thân vật chất thôi mà. Xuất được cái Tôi ra khỏi cơ thể vật lý, đã là một công việc vô cùng khó khăn, nhưng đây mới chỉ là bước đầu tiên trên quãng đường còn quá xa, nếu coi Giải Thoát là mục đích để hướng tới.
- Ông Tổng Quản: Cô nói đúng. Bước tiếp theo còn khó khăn hơn nữa mà chúng ta phải giải quyết, chính là vấn đề những cái Tâm. Nó xây dựng lên chính chúng ta.
- Tam Tiểu Thư: Có lẽ không còn cách nào khác là Tôi phải đồng ý với Ông! Tôi nhớ có đọc một tài liệu, hình như là Pháp Cú thì phải, ở phần đầu họ nêu ra những định đề về vần đề cái Tâm, có một câu rất ấn tượng cho tôi "Tâm đứng đầu, tâm tạo tác tất cả". Vật lý thì cho biết "Trường sanh ra Chất", "Năng lượng sanh ra Khối lượng". Tôi hiểu một cách nôm na thì hình như "tinh thần sanh ra vật chất". Nói với riêng ông những hiểu biết của tôi vậy thôi. Tôi e ngại rằng nếu có ai khác biết, họ sẽ cho tôi là khoa học giả tạo.
- Ông Tổng Quản: Cám ơn cô đã đóng góp nhiều thông tin tích cực, giúp cho đề tài thêm phong phú, đa dạng.
Tâm mà chúng ta đề cập ở đây, thì có lẽ không giống bất cứ cái gì người ta thường nghĩ, đối với khoa học cũng như Tôn Giáo. Vấn đề Tâm nhìn ở góc cạnh đề tài chúng ta đang tiếp cận, thì khoa học hiện đại không có bất cứ một lý thuyết nào có thể hỗ trợ cho vấn đề này. Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài cách dựa vào lý thuyết của những bộ Luận có lẽ đã vài ngàn năm tuổi; của tài liệu Patanjali. Ngoài ra còn phải kể thêm đến kinh nghiệm thực tiễn nữa.
- Tam Tiểu Thư: Gần đây tôi thấy ông hay nhắc đến các bộ Luận. Tinh thần của bộ Luận nói về Tâm như thế nào ông? Thật tình khi bàn về Tâm, tôi thấy người ta mô tả tính chất của nó tính chất chung chung, mơ hồ, kiểu văn chương, triết học, huyền bí. Một thí dụ điển hình về Tâm rất nổi tiếng là giai thoại "Niêm hoa thị chúng", cử tọa người hiểu thế này, kẻ hiểu thế khác. Vị này bảo Tâm phải năng lau chùi thì mới trong sáng, còn vị khác lại bảo Tâm trong sáng không cần lau chùi! Không biết quý độc giả của CTR blog thì hiểu thế nào?
- Ông Tổng Quản: Nói về cách mô tả, cách chia chẻ, sắp xếp, hệ thống hóa về Tâm thì các bộ Luận chính là bậc Thầy trong lãnh vực này.
Tâm ở đây nặng về tính chất vật lý và ứng dụng. Các Tâm được coi tương đương như các nguyên tố hóa học, đã xây dựng lên Thế Giới Vật Chất. Thật sự, Tâm ở đây được mang ra để đếm về số lượng, có những Tâm được coi là homogene, heterogene. Cụ thể là Thiện Tâm không có các Bất Thiện Tâm thì có tính chất homogene.
- Tam Tiểu Thư: Ông làm tôi thực sự ngạc nhiên. Cách trình bày về những cái Tâm của ông, dựa trên cơ sở những bộ Luận Phật giáo đúng là mang nặng màu sắc Duy Vật. Ông bàn về Tâm mà chẳng Duy Tâm tí nào. Tâm dưới góc nhìn này cũng chẳng thấy dấu vết của tính chất lãng mạn gì cả. Ông làm gì cũng khác người. Nhìn nhận tâm như ông nói thì có lẽ là tôi mới nghe lần đầu tiên trong đời.
- Ông Tổng Quản: Tam tiểu thư à! Trên thực tế, lúc Thiền Định cũng như Xuất Hồn và kể cả các thao tác khác nữa … thì cái Tôi là chính mình. Trong bất cứ tiến trình nào, thì mình cũng phải giải quyết những cái Tâm. Đó là một cuộc "tranh chấp của nội Tâm, của tình cảm. Tranh chấp giữa lý trí và tình cảm, giữa Thiện Tâm và Bất Thiện Tâm …". Chúng ta có tâm trạng như một người giám đốc, phải giám sát, tìm hiểu để giải quyết vấn đề nhân sự phức tạp và tế nhị khi điều hành công việc.
Bây giờ chúng ta thử quan sát mô hình tiêu biểu của người Nhập Định. Khi bắt đầu Nhập Định, phải cảnh giác với các Bất Thiện Tâm thuộc dòng họ Tham, Sân, Si; trong đó phải đặc biệt chú ý tới Si Tâm là Tâm muội lược. Chúng ta cần tích cực triển khai Thiền Thiện Tâm: Tầm, Tứ v.v... Thế nhưng về góc độ thực hành Thiền Định thì ai cũng biết là khi triển khai những thao tác nói trên, các Bất Thiện Tâm thường quá mạnh, lấn át các Thiện Tâm. Khi chúng ta nhận biết được các đối thủ của mình là Bất Thiện Tâm, cũng chưa chắc làm gì được nó!
Rất nhiều các vị đã tu Thiền Định rất nhiều năm tháng cũng đã không ngờ trên đời lại có những tài liệu gọi là Luận, gọi là Patanjali.
- Tam Tiểu Thư: Tôi cứ tưởng xuất được cái Hồn, cái Tôi là yên ổn rồi. Chúng ta có thể rửa tay gác kiếm ăn mừng chiến thắng theo kiểu con nhà võ. Thật không ngờ con người lại còn một thành phần cấu tạo Tâm, mà phần cấu tạo này có vẻ quá khó khăn. Tôi nghe nói theo tài liệu Vi Diệu Pháp thì có đến mấy trăm cái Tâm, với đủ thứ chủng loại. Nếu phối hợp theo xác xuất, thì đưa đến một con số tổ hợp vô hạn. Những cuộc nói chuyện giữa ông và tôi về vấn đề này chắc không bao giờ chấm dứt.
- Ông Tổng Quản: Đúng thế Tam Tiểu Thư, văn chương của Pháp có câu thơ mà ai cũng biết, tôi xin phỏng dịch:
“Trái tim có những lý lẽ, mà lý lẽ không biết tới”
Trái tim (Le coeur) ở đây chúng ta hiểu là tình cảm, nó không chịu tuân theo quy luật logic nào cả. Chính vì lý do này mà người Raja Yoga phải chia ra làm 3 giai đoạn để khắc phục tình trạng nói trên:
* Điều tức.
* Điều thân.
* Điều tâm.
- Tam Tiểu Thư: Tôi hỏi nhỏ ông câu này nhé: phải làm sao để bảo được các Tâm của mình, làm chủ được nó, nó phải nằm dưới sự kiểm soát của tôi, không cho nó nổi loạn?
- Ông Tổng Quản: Tôn Tử vẫn đúng kể cả trong trường hợp cai trị cái Tâm "Biết mình, và biết những cái Tâm”. Mình phải học, hiểu biết về những cái Tâm, đó là cách duy nhất.
Những tài liệu luận của trường phái Phật Giáo chính là kho báu vô giá, là bí kíp có một không hai, đang chờ đợi chúng ta khám phá.
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013
Con Mắt Thứ Ba: Xuyên Vân kiếm pháp 39 ~ CTR
Tập 39: Trận Chiến Cuối Cùng Armageddon giữa Con Người và Thần Chết (phần 5)
Kỹ Thuật Xuất Hồn của con người là trụ cột chủ động tạo ra cái Chết An Lạc
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản ơi! Ông đã nói tôi nghe rất nhiều về chuyện Xuất Hồn. Tôi muốn ông xác định lần nữa: Xuất Hồn thực sự là xuất cái gì? Xuất cái Tôi hay xuất cái Hồn? Ông rắc rối thiệt đó!
- Ông Tổng Quản: Ok. Cô chú ý những gì tôi sắp nói sau đây nhé vì nó là những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và là cơ sở không thể thiếu được của việc Xuất Hồn.
Phải nói ngay với cô, sự thật là xuất cái Tôi chứ không phải xuất cái Hồn. Cái "Tôi" là một sự thật hiển nhiên. Khi đề cập đến cái "Tôi" là hàm ý phân biệt với người khác. Chúng ta nói: "cái Hồn của Tôi" chứ không thể nói: "Tôi của cái Hồn". Nói theo một trường phái Phật Giáo, Tôi là sở hửu chủ, đồng thời chính là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, … là Luồng Tâm Thức không bao giờ ngưng nghỉ …
Có một tác giả viết về vấn đề "Astral travel" xin phỏng dịch là Xuất Hồn như sau: "Think of you’re the astral body gradually, easily separating from the physical body", "your astral body will be able to look at your physical (body)". Chúng ta chỉ đọc hai câu này thôi, trong nhiều chương của một tác giả nói về vấn đề Xuất Hồn, thì chúng ta có nhận xét là, con người có hai cái Tôi. Một cái Tôi thuộc về thân xác vật lý (your think of) (your astral) và cái Hồn lại cũng có một cái Tôi. Do đó, cái Hồn mới có thể nhìn biết thân xác vật lý (to be able look at).
Theo tâm lý học cổ điển, một người mà có hai cái Tôi thì được gọi là nhị trùng bản ngã, thực tế có thể là bị điên; vì thông thường nếu hai cái Tôi cùng tồn tại trong một cơ thể, thì nó thường không thể nào hòa hợp hay thỏa thuận được với nhau.
- Tam Tiểu Thư: Thôi đi ông Tổng Quản ơi, ông phải nhớ tôi là chuyên gia lướt “web” chứ! Tài liệu mà ông đang đề cập tới đó rất là nổi tiếng. Nói không quá lời, đó là tài liệu có tính cách tiêu biểu của thế kỷ 20 chứ đâu phải tầm thường. Có nhiều người từng đọc, từng tin và từng tập. Chẳng lẽ tài liệu này nói sai? Chẳng lẽ chúng ta vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân của tài liệu nói trên sao? Nghe mà đau khổ thiệt đó. Vậy người viết kinh nghiệm Xuất Hồn trong đó là xuất cái gì? Đúng là:
Ma đưa lối, Quỷ đưa đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Ông nói thế tôi tạm chấp nhận, nhưng tôi muốn chỉ ra chỗ “phi lý” của ông. Theo tôi biết thì người ta làm gì có “Ngã”. Ông tu thiền mà, chẳng lẽ ông không biết từ “Vô Ngã”? Đã vô ngã mà còn xuất cái “Tôi”! Đúng là điên đầu quá!
- Ông Tổng Quản: "Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" được gọi là Tam pháp ấn của Phật giáo. Thế nhưng có lẽ người ta không nên coi Thuyết Nhân Thể - Pudgala (thuyết hữu ngã) là ngoại đạo, là tà giáo, dị giáo. Trong cuộc sống, cái Tôi là một thực tại hiển nhiên, một thực tại tối hậu thật sự hiện hữu, không cần phải chứng minh. Người Pháp cũng có những phát biểu tương tự "Tôi tư duy vậy thì Tôi hiện hữu", “con người là một cây sậy biết tư duy”. Pudgala là sỡ hữu chủ của rất nhiều thứ, di trú từ đời sống này qua đời sống khác theo nhân quả. Trong các tài liệu của Phật Giáo, có rất nhiều từ ngữ để mô tả cái Tôi, phù hợp với tinh thần của từng tác phẩm, thí dụ: Chân Tâm, Phật Tánh, Luồng Tâm Thức …
Nếu chúng ta đặt giả thuyết ngược lại là con người không có cái Tôi thì chúng ta … không thể Xuất cái Tôi, vì có cái Tôi đâu mà Xuất. Như vậy cái “Tôi” là cần thiết cho việc Xuất Hồn.
- Tam Tiểu Thư: Giải thích của ông cũng không phi lý chút nào. Theo huyền sử thì Ngài Sakya Muni đã nhập định, bỏ cái xác vật chất lại thế gian và nhập vào Niết Bàn. Tất nhiên ai cũng phải tự hỏi, cái gì nhập vào Niết Bàn? Tự Tánh, Chân Như, Phật Tánh … ? Sự thật hiển nhiên không cần phải chứng minh là phải có một cái Tôi của Sakya Muni nhập vào Niết Bàn. Đó chính là câu trả lời cho câu hỏi: "Ai nhập Niết Bàn?" .
Nếu ngày hôm nay chúng ta tái phát hiện ra kỹ thuật mà ngài Sakya Muni đã từng sử dụng trong quá khứ, thì chúng ta cũng có khả năng làm những gì mà ngài Sakya Muni từng làm. Bộ môn nào cũng khó khăn, gian lao, vất vả cho người khai sơn phá thạch, nhưng một khi nó đã được công nghiệp hóa, mang tính chất phổ cập thì trở nên dễ dàng.
- Ông Tổng Quản: Qua kinh nghiệm của chính bản thân mình, tôi biết là chúng ta có thể tồn tại ngoài thân xác vật lý. Chúng ta có ít nhiều kinh nghiệm về cái chết chủ động của mình khi chưa hết vòng đời. Có lẽ đây là những kinh nghiệm bản thân có một không hai … !
- Tam Tiểu Thư: Nghe ông nói, tôi thấy tương lai về cái chết có vẻ lạc quan. Trong thời buổi @ hiện nay, những ai quan tâm tới vấn đề này sẽ có cơ hội đọc rất nhiều tài liệu. Thế giới phẳng nên thông tin vừa nhanh chóng vừa đa dạng. Tôi đánh chữ “xuất hồn” vào google, kết quả có 32.640.000 trong vòng 0.26 giây! người Tây Phương cũng tham dự rất tích cực trong lãnh vực này. Biết bao nhiêu quý độc giả đã bỏ ra nhiều chục năm để tập luyện; và rất nhiều người kết quả có lẽ chỉ là con số không! Người ta thất bại trong luyện tập mà cũng chẳng hiểu lý do tại sao. Dưới con mắt của các khoa học gia thì việc xuất hồn không những được coi là không thuyết phục không ấn tượng, mà thậm chí là bị coi là mất trí, là hoang tưởng …
Vậy mà hôm nay, chúng ta lại đưa ra một sản phẩm "Made in Viet Nam", vô danh tiểu tốt, nhiều tình cảm tiêu cực với người tiêu dùng. Tôi e là chỉ mới đọc lời mở đầu thôi, là người ta đã không muốn đọc tiếp rồi, nói gì tới việc mang ra ứng dụng trên thực tế. Ông coi chừng bài viết của chúng ta làm cho blog của CTR khánh tận, phá sản đó nha ông!
- Ông Tổng Quản: Những phát minh khoa học vĩ đại, đổi đời, thường bắt đầu những gì nhỏ bé khiêm tốn. Radium được phát minh bởi hai vợ chồng Curie (Pierre và Marie) trong một căn phòng nhỏ hẹp thiếu tiện nghi.
Lý thuyết du hành vũ trụ được viết bởi một giáo viên tỉnh lẻ. Thuốc giảm đau là một phát minh của một nha sĩ vô danh. Phát hiện ra vi trùng không phải là một Bác Sĩ. Phát minh ra máy bay không phải là kỹ sư hàng không. Vào thời gian đó người ta đã không tin là vật gì đó nặng hơn không khí mà có thể bay được. Sau này người ta không tin là có nhiên liệu gì đủ sức để làm cho hỏa tiễn đạt được vận tốc 11 km/s để có thể bay ra ngoài vũ trụ. Nhưng rồi những cái gì không thể đã trở thành có thể.
Lịch sử khoa học cho người ta thấy rằng: "phát minh thường là của người ngoại đạo". Sáng kiến chỉ có thể phát triển khi thoát khỏi vỏ bọc thành kiến, quan điểm kinh điển. Ở bất cứ thời đại nào và bất cứ ở đâu, những vị có chức có quyền ở trong một tổ chức nào đó thường kinh sợ những phát minh đột biến tư tưởng, vì e ngại sẽ tổn hại tới vị trí và quyền lợi của bản thân mình.
Con đường truyền thống, con đường kinh viện là con đường an toàn nhất. Còn phát minh, sáng kiến … chỉ là thủ phạm mang lại tai họa cho chủ nhân của nó.
Ngày nào mà con người chưa bắt được một con Ma, thì những bài viết về dạng đề tài "Xuất Hồn" là những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầy bất trắc. Hy vọng là Ghost Lab trong kênh truyền hình Discovery sớm thực hiện được việc bắt Ma đem về chăm sóc tại một địa điểm nào đó rồi thẩm vấn xem Ma sống như thế nào.
- Tam Tiểu Thư (cười lớn): Tôi nghĩ ông đã đi quá xa rồi, ông nên quay về về vấn đề Xuất Hồn đi ông.
- Ông Tổng Quản: Như tất cả mọi ngành nghề chuyên môn, chuyên sâu … chẳng hạn như phi công lái máy bay, muốn bay một chiếc Tiềm Kích đời mới của không lực Hoa Kỳ, cũng phải có học vị … và phải học tập nhiều năm.
Quay lại chuyện xuất hồn, mặc dù chúng ta đã trao đổi rất nhiều lần về vấn đề này, nó vẫn còn rất nhiều tồn tại, mà những vị tự cho mình là Phật Tử không thể chấp nhận được. Vấn đề cái Tôi là một đề tài điển hình. Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Não được đại đa số cho là Chân Lý bất tử và tuyệt đối, không còn gì để bàn cãi.
Có lẽ nhiều quý vị không ngờ rằng Phật Giáo Nguyên Thủy lại còn một Trường Phái tồn tại song song đó là trường phái Nhân Thể Luận. Trường phái này công nhận con người có một cái Tôi thường hằng. Theo trường phái này thì có rất nhiều lý do khá đơn giản để thấy sự hiện hữu của một cái Tôi:
- Ai tu Thiền, ai đắc Thiền, ai đạt Niết Bàn?
- Ai tạo Nghiệp, ai là người thọ nhận hệ quả của Nghiệp Lực?
- Ai là sở hữu chủ của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức?
Cái Tôi vừa là sở hữu chủ, đồng thời cũng là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Có thể một số quý độc giả cho là cách trình bày này vi phạm nguyên tắc đồng nhất trong logic học (Trong quá trình lập luận mọi tư tưởng lập luận phải đồng nhất với chính nó). Câu trả lời là chính xác là: "đúng". Nhưng chúng ta nghĩ gì về trường hợp ánh sáng: Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng.
Để trả lời cho những câu hỏi “Ai” ở trên thì chính cái Tôi là đáp án.
Chính cái chìa khóa của việc gọi là Xuất Hồn nằm ở chổ này. Và cũng chính vì lý do này mà chúng ta phải đề cập nhiều lần về đề tài cái Tôi.
Thật vậy, nếu chúng ta khăng khăng chủ trương thuyết Vô Ngã thì việc Xuất Hồn thực tế không thể thực hiện được. Không có cái Tôi thì làm sao có thể Xuất cái Tôi? Thêm vào đó còn có những khó khăn bất cập. Nếu chúng ta chỉ có thân xác vật lý kèm với một số loại thân xác khác có những cái tên khác thì chúng ta vẫn thiếu một sở hữu chủ.
Nếu quý độc giả nắm được tinh thần những bộ Luận của trường phái Phật Giáo, thì không khó lắm để giải thích về vấn đề Hồn. Các lý thuyết khoa học hiện đại trong lãnh vực này, dường như không có khả năng để giúp chúng ta, do đó chúng ta không đề cập tới.
- Tam Tiểu Thư: Vậy theo ông thì cái gì đã tạo ra con người?
- Ông Tổng Quản: Thực tế có 4 yếu tố là:
1. Cái Tôi.
2. Các Tâm.
3. Các Sắc.
4. Cùng Năng lượng của Nghiệp Lực đã tạo ra một con người, đa dạng, uyển chuyển, luôn luôn thay đổi. Chính vì lý do "vạn vật biến chuyển không ngừng" nên khi nằm mơ, hoặc khi nhập định, chúng ta không bao giờ đến một nơi hai lần, gặp ai đó hai lần. Trường phái Phật Giáo có một phát biểu được coi như một định đề; đó là: "Tâm đứng đầu, Tâm tạo tác tất cả". Tâm chúng ta thì lại luôn luôn thay đổi, nên từ đó suy ra, chúng ta có vô số các loại Hồn tùy vào trạng thái cấu tạo Tâm của chúng ta.
- Tam Tiểu Thư: Nếu giải quyết được tư tưởng của hai vấn đề: Cái Tôi / Cái Hồn thì sẽ tập luyện xuất hồn như thế nào?
- Ông Tổng Quản: Tôi sẽ trình bày cho cô và quý độc giả những thao tác, những kỹ thuật của việc Xuất Hồn.
A. Bước chuẩn bị sơ bộ:
- Tìm một nơi, một địa điểm, có tính cách riêng tư, yên lặng.
- Cố sắp xếp thời gian thật sự không vướng bận.
- Thường xuyên tập luyện thể lực để có sức khỏe tốt.
- Một đời sống tinh thần tự nhiên, không gượng ép, không giả tạo, tránh đạo đức giả, tránh tạo vẻ thần bí thiêng liêng.
- Chọn một vị thế công phu không cầu kỳ, một vị thế phù hợp sức khỏe và tuổi tác của mình.
- Phải thư giãn thoải mái … nhiều người cho rằng vị thế nằm của người chết là tốt nhất, không làm trở ngại thần kinh và tuần Hồn .
B. Người ta khó có thể tin một người không có khả năng Nhập Định lại có thể Xuất Hồn được. Những từ ngữ mà người Tây Phương sử dụng lẫn lộn: Trạng thái Thôi Miên, Thiền Định, thư giãn … nó chỉ chính xác trong lãnh vực khoa học hiện đại. Nhưng trong lãnh vực Xuất Hồn, thì những từ ngữ nói trên bộc lộ, phản ảnh tính chất ngây thơ về lãnh vực này. Khả năng Thiền Định, Định Lực là một công cụ không thể thiếu được. Quý vị nào có ý định tập luyện bộ môn này phải vô cùng quan tâm, làm sao tạo cho mình có một tài khoản Định lực đáng tin cậy (nói theo từ ngữ máy tính). Thật vậy, thiếu Định lực phải bảo là một tai họa. Xuất Định, thối Định, không làm chủ được Định lực thì không thể tập được cái gì, trong đó tất nhiên có thao tác Xuất Hồn. Tài liệu của trường phái Phật Giáo cũng cho là "Thần Thông là hệ quả tất yếu của Tứ Thiền Hữu Sắc".
C. Trong lúc đang sinh hoạt bình thường, chúng ta phải tự khuyến dụ mình như sau: Tôi sẽ Nhập Định để Xuất Hồn (trong trường phái Thôi Miên, người ta gọi là khuyến dụ bằng lời nói Suggestion Verbale). Căn cứ vào kỹ thuật Tác Pháp của trường phái Mật Giáo và kỹ thuật Khuyến dụ bằng lời nói của trường phái Thôi Miên, thì việc tự khuyến dụ mình đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động tinh thần của mình.
Chúng ta bây giờ bước vào Nhập Định, cố gắng làm sao đạt được trạng thái định cao nhất, mạnh nhất, lâu dài nhất. Ở trong trạng thái này, Tôi sẽ ra một cái lệnh, ngắn gọn, dể hiểu, cương quyết và dứt khoát: "Tôi sẽ ra khỏi thân xác vật lý".
Tại sao chúng ta phải sử dụng công cụ Thiền Định? Căn cứ vào các tài liệu, và chính kinh nghiệm của người tu Thiền, thì khi Nhập Định, mức Định càng cao thì tâm lý chúng ta càng uyển chuyển, mềm dẻo, nhu nhuyễn, dễ bảo … Bất cứ ai có kinh nghiệm về Thiền Định đều thấy được điều này một cách rõ ràng. Chính ở trạng thái này Tôi mới có khả năng, có hy vọng, tách ra khỏi thân xác vật lý một cách chủ động.
Kỹ Thuật:
Đầu tiên chúng ta làm một thao tác đơn giản nhất là Tôi thấy Tôi ngồi ở một cái ghế nào đó, đối diện với thân xác vật lý đang ngồi Thiền Định.
- Tam Tiểu Thư: Điều này nói thì dễ, nhưng tôi nghĩ thực hiện sẽ vô cùng khó khăn. Ông đã từng giải thích rằng chúng ta được cấu tạo bởi 4 yếu tố. Những yếu tố này lại có tính chất cố hữu, lệ thuộc vào nhau và rất khó tách rời. Nay chúng ta muốn chủ động tách cái Tôi ra khỏi thân xác vật lý thì không phải chuyện dễ.
Mặt khác, ông cũng biết rằng chúng ta lại có một khuynh hướng bẩm sinh mang tính chất bản năng: Đó là sinh hoạt trong không gian 3, 4 chiều. Do đó, chúng ta phân biệt: Trước, sau, trên, dưới, trái, phải … Điều này là do thân xác mình có một bộ phận định hướng không gian nằm ở tai trong; từ ngữ y học gọi là tiền đình. Tiền đình có ba ống bán khuyên để nhận và truyền các thông số về toạ độ của đầu con người trong ba chiều không gian. Do đó cái Tôi xuất ra khỏi thân xác vật lý, rất khó để quay lại nhìn về phía thân xác vật lý, vì lý do ngược chiều trước sau giữa cái Tôi và thân xác vật lý.
Tôi cũng muốn hỏi ông là làm cách nào để xác định là cái Tôi đã ra ngoài thân xác vật lý rồi và đoan chắc điều này là có thật, chứ không phải chỉ là tưởng tượng?
- Ông Tổng Quản: Để chắc chắn điều đó thì ...
* Tôi phải liên tục duy trì Định Lực mạnh nhất có thể,
* Tôi tự thấy mình là ngồi ở một cái ghế nào đó trước mặt thân xác vật lý,
* Tôi tự bảo mình là nhìn về phía những đồ vật cùng với thân xác vật lý.
Việc này phải kiên trì, và phải dùng hết nghị lực. Có thể đến lúc nào đó, chúng ta thấy mình hoàn toàn đang hiện hữu ngồi ở cái ghế trước mặt thân xác vật lý, đồng thời dường như có khả năng nhìn về thân xác vật lý. Diễn tiến này đòi hỏi một nỗ lực tinh thần cao độ, một chất lượng của Thiền Định ở mức tốt nhất.
- Tam Tiểu Thư: Khi nhìn về phía đồ vật cùng với thân xác vật lý, thì ông sẽ thấy nó như thế nào? Nó có giống như lúc trước khi xuất cái Tôi ra không?
- Ông Tổng Quản: À! Chúng ta chỉ thấy thân xác vật lý thoáng qua thôi, không bao giờ nhìn thấy lâu. Sau đó thế giới khách quan ở phía thân xác vật lý sẽ hiện hữu tương xứng với cấu tạo cái Tôi của chúng ta. Cụ thể là, không phải chúng ta nhìn thấy căn phòng vật chất như nhiều người mô tả, mà thực sự chúng ta nhìn thấy thế giới tự nhiên khách quan tùy thuộc vào cấu tạo Tâm cái Tôi của mình.
- Tam Tiểu Thư: Ông cho tôi hỏi là tại sao khi mới xuất hồn ra thì mình lại thoáng thấy thân xác vật lý rồi sau đó không thấy nữa? Ông từng nói mình có thể xuất hồn khi nằm mơ phải không ông? Tôi từng nằm mơ và đúng như ông nói, tôi chẳng bao giờ thấy thân xác vật lý của tôi đang nằm ngủ cả. Tại sao vậy ông?
- Ông Tổng Quản: Vì cấu tạo Sắc của cái Tôi xuất ra này không giống với Sắc của thân xác vật lý. Cô biết là Sắc của thân xác vật lý gồm 28 yếu tố. Trong giai đoạn chuyển tiếp, Sắc của cái Tôi xuất ra chỉ hơi khác thân xác vật lý (thí dụ là 27 hoặc 27.5 yếu tố) nên cô có thể trông thấy thân xác này nhưng chỉ thoáng qua. Khi đã xuất ra lâu, thì cái Sắc của cái Tôi xuất ra sẽ khác đi nhiều. Do đó chúng ta sẽ thấy thế giới khách quan tương xứng với cấu tạo của cái Tôi này. Dĩ nhiên cái Thấy về thế giới của người xuất hồn này nó sẽ khác cái thấy về thế giới khách quan vật chất mà chúng ta đang sinh hoạt.
- Tam Tiểu Thư: Thôi tôi hiểu rồi. Cái Tôi xuất ra chắc chắn không thể thấy nhà cửa, bàn ghế, cây cối ... như người ta từng mô tả. Và rõ ràng là không có thể vào siêu thị chọn đồ để ngày mai quay lại mua!
- Ông Tổng Quản: Những gì mà chúng ta mô tả ở trên, chỉ là một trường hợp có tính chất tích cực nhất. Thực tế việc Xuất cái Tôi này nó lệ thuộc ở quá nhiều yếu tố nên người ta phải tập luyện nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm … Thậm chí có thể là không bao giờ thành công cả. Có thể có hai lý do cơ bản nhất và phổ biến nhất để lý giải việc thất bại:
* Thiếu kiến thức về lý thuyết và kỹ thuật, cái này có thể học được.
* Thiếu bản lĩnh về Thiền Định: Thật sự đây là một vấn đề rất khó giải quyết. Chúng ta phải nói thật, nói trung thực là không phải ai cũng có thể tập Thiền Định được.
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Kỹ Thuật Xuất Hồn của con người là trụ cột chủ động tạo ra cái Chết An Lạc
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản ơi! Ông đã nói tôi nghe rất nhiều về chuyện Xuất Hồn. Tôi muốn ông xác định lần nữa: Xuất Hồn thực sự là xuất cái gì? Xuất cái Tôi hay xuất cái Hồn? Ông rắc rối thiệt đó!
- Ông Tổng Quản: Ok. Cô chú ý những gì tôi sắp nói sau đây nhé vì nó là những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và là cơ sở không thể thiếu được của việc Xuất Hồn.
Phải nói ngay với cô, sự thật là xuất cái Tôi chứ không phải xuất cái Hồn. Cái "Tôi" là một sự thật hiển nhiên. Khi đề cập đến cái "Tôi" là hàm ý phân biệt với người khác. Chúng ta nói: "cái Hồn của Tôi" chứ không thể nói: "Tôi của cái Hồn". Nói theo một trường phái Phật Giáo, Tôi là sở hửu chủ, đồng thời chính là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, … là Luồng Tâm Thức không bao giờ ngưng nghỉ …
Có một tác giả viết về vấn đề "Astral travel" xin phỏng dịch là Xuất Hồn như sau: "Think of you’re the astral body gradually, easily separating from the physical body", "your astral body will be able to look at your physical (body)". Chúng ta chỉ đọc hai câu này thôi, trong nhiều chương của một tác giả nói về vấn đề Xuất Hồn, thì chúng ta có nhận xét là, con người có hai cái Tôi. Một cái Tôi thuộc về thân xác vật lý (your think of) (your astral) và cái Hồn lại cũng có một cái Tôi. Do đó, cái Hồn mới có thể nhìn biết thân xác vật lý (to be able look at).
Theo tâm lý học cổ điển, một người mà có hai cái Tôi thì được gọi là nhị trùng bản ngã, thực tế có thể là bị điên; vì thông thường nếu hai cái Tôi cùng tồn tại trong một cơ thể, thì nó thường không thể nào hòa hợp hay thỏa thuận được với nhau.
- Tam Tiểu Thư: Thôi đi ông Tổng Quản ơi, ông phải nhớ tôi là chuyên gia lướt “web” chứ! Tài liệu mà ông đang đề cập tới đó rất là nổi tiếng. Nói không quá lời, đó là tài liệu có tính cách tiêu biểu của thế kỷ 20 chứ đâu phải tầm thường. Có nhiều người từng đọc, từng tin và từng tập. Chẳng lẽ tài liệu này nói sai? Chẳng lẽ chúng ta vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân của tài liệu nói trên sao? Nghe mà đau khổ thiệt đó. Vậy người viết kinh nghiệm Xuất Hồn trong đó là xuất cái gì? Đúng là:
Ma đưa lối, Quỷ đưa đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Ông nói thế tôi tạm chấp nhận, nhưng tôi muốn chỉ ra chỗ “phi lý” của ông. Theo tôi biết thì người ta làm gì có “Ngã”. Ông tu thiền mà, chẳng lẽ ông không biết từ “Vô Ngã”? Đã vô ngã mà còn xuất cái “Tôi”! Đúng là điên đầu quá!
- Ông Tổng Quản: "Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" được gọi là Tam pháp ấn của Phật giáo. Thế nhưng có lẽ người ta không nên coi Thuyết Nhân Thể - Pudgala (thuyết hữu ngã) là ngoại đạo, là tà giáo, dị giáo. Trong cuộc sống, cái Tôi là một thực tại hiển nhiên, một thực tại tối hậu thật sự hiện hữu, không cần phải chứng minh. Người Pháp cũng có những phát biểu tương tự "Tôi tư duy vậy thì Tôi hiện hữu", “con người là một cây sậy biết tư duy”. Pudgala là sỡ hữu chủ của rất nhiều thứ, di trú từ đời sống này qua đời sống khác theo nhân quả. Trong các tài liệu của Phật Giáo, có rất nhiều từ ngữ để mô tả cái Tôi, phù hợp với tinh thần của từng tác phẩm, thí dụ: Chân Tâm, Phật Tánh, Luồng Tâm Thức …
Nếu chúng ta đặt giả thuyết ngược lại là con người không có cái Tôi thì chúng ta … không thể Xuất cái Tôi, vì có cái Tôi đâu mà Xuất. Như vậy cái “Tôi” là cần thiết cho việc Xuất Hồn.
- Tam Tiểu Thư: Giải thích của ông cũng không phi lý chút nào. Theo huyền sử thì Ngài Sakya Muni đã nhập định, bỏ cái xác vật chất lại thế gian và nhập vào Niết Bàn. Tất nhiên ai cũng phải tự hỏi, cái gì nhập vào Niết Bàn? Tự Tánh, Chân Như, Phật Tánh … ? Sự thật hiển nhiên không cần phải chứng minh là phải có một cái Tôi của Sakya Muni nhập vào Niết Bàn. Đó chính là câu trả lời cho câu hỏi: "Ai nhập Niết Bàn?" .
Nếu ngày hôm nay chúng ta tái phát hiện ra kỹ thuật mà ngài Sakya Muni đã từng sử dụng trong quá khứ, thì chúng ta cũng có khả năng làm những gì mà ngài Sakya Muni từng làm. Bộ môn nào cũng khó khăn, gian lao, vất vả cho người khai sơn phá thạch, nhưng một khi nó đã được công nghiệp hóa, mang tính chất phổ cập thì trở nên dễ dàng.
- Ông Tổng Quản: Qua kinh nghiệm của chính bản thân mình, tôi biết là chúng ta có thể tồn tại ngoài thân xác vật lý. Chúng ta có ít nhiều kinh nghiệm về cái chết chủ động của mình khi chưa hết vòng đời. Có lẽ đây là những kinh nghiệm bản thân có một không hai … !
- Tam Tiểu Thư: Nghe ông nói, tôi thấy tương lai về cái chết có vẻ lạc quan. Trong thời buổi @ hiện nay, những ai quan tâm tới vấn đề này sẽ có cơ hội đọc rất nhiều tài liệu. Thế giới phẳng nên thông tin vừa nhanh chóng vừa đa dạng. Tôi đánh chữ “xuất hồn” vào google, kết quả có 32.640.000 trong vòng 0.26 giây! người Tây Phương cũng tham dự rất tích cực trong lãnh vực này. Biết bao nhiêu quý độc giả đã bỏ ra nhiều chục năm để tập luyện; và rất nhiều người kết quả có lẽ chỉ là con số không! Người ta thất bại trong luyện tập mà cũng chẳng hiểu lý do tại sao. Dưới con mắt của các khoa học gia thì việc xuất hồn không những được coi là không thuyết phục không ấn tượng, mà thậm chí là bị coi là mất trí, là hoang tưởng …
Vậy mà hôm nay, chúng ta lại đưa ra một sản phẩm "Made in Viet Nam", vô danh tiểu tốt, nhiều tình cảm tiêu cực với người tiêu dùng. Tôi e là chỉ mới đọc lời mở đầu thôi, là người ta đã không muốn đọc tiếp rồi, nói gì tới việc mang ra ứng dụng trên thực tế. Ông coi chừng bài viết của chúng ta làm cho blog của CTR khánh tận, phá sản đó nha ông!
- Ông Tổng Quản: Những phát minh khoa học vĩ đại, đổi đời, thường bắt đầu những gì nhỏ bé khiêm tốn. Radium được phát minh bởi hai vợ chồng Curie (Pierre và Marie) trong một căn phòng nhỏ hẹp thiếu tiện nghi.
Lý thuyết du hành vũ trụ được viết bởi một giáo viên tỉnh lẻ. Thuốc giảm đau là một phát minh của một nha sĩ vô danh. Phát hiện ra vi trùng không phải là một Bác Sĩ. Phát minh ra máy bay không phải là kỹ sư hàng không. Vào thời gian đó người ta đã không tin là vật gì đó nặng hơn không khí mà có thể bay được. Sau này người ta không tin là có nhiên liệu gì đủ sức để làm cho hỏa tiễn đạt được vận tốc 11 km/s để có thể bay ra ngoài vũ trụ. Nhưng rồi những cái gì không thể đã trở thành có thể.
Lịch sử khoa học cho người ta thấy rằng: "phát minh thường là của người ngoại đạo". Sáng kiến chỉ có thể phát triển khi thoát khỏi vỏ bọc thành kiến, quan điểm kinh điển. Ở bất cứ thời đại nào và bất cứ ở đâu, những vị có chức có quyền ở trong một tổ chức nào đó thường kinh sợ những phát minh đột biến tư tưởng, vì e ngại sẽ tổn hại tới vị trí và quyền lợi của bản thân mình.
Con đường truyền thống, con đường kinh viện là con đường an toàn nhất. Còn phát minh, sáng kiến … chỉ là thủ phạm mang lại tai họa cho chủ nhân của nó.
Ngày nào mà con người chưa bắt được một con Ma, thì những bài viết về dạng đề tài "Xuất Hồn" là những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầy bất trắc. Hy vọng là Ghost Lab trong kênh truyền hình Discovery sớm thực hiện được việc bắt Ma đem về chăm sóc tại một địa điểm nào đó rồi thẩm vấn xem Ma sống như thế nào.
- Tam Tiểu Thư (cười lớn): Tôi nghĩ ông đã đi quá xa rồi, ông nên quay về về vấn đề Xuất Hồn đi ông.
- Ông Tổng Quản: Như tất cả mọi ngành nghề chuyên môn, chuyên sâu … chẳng hạn như phi công lái máy bay, muốn bay một chiếc Tiềm Kích đời mới của không lực Hoa Kỳ, cũng phải có học vị … và phải học tập nhiều năm.
Quay lại chuyện xuất hồn, mặc dù chúng ta đã trao đổi rất nhiều lần về vấn đề này, nó vẫn còn rất nhiều tồn tại, mà những vị tự cho mình là Phật Tử không thể chấp nhận được. Vấn đề cái Tôi là một đề tài điển hình. Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Não được đại đa số cho là Chân Lý bất tử và tuyệt đối, không còn gì để bàn cãi.
Có lẽ nhiều quý vị không ngờ rằng Phật Giáo Nguyên Thủy lại còn một Trường Phái tồn tại song song đó là trường phái Nhân Thể Luận. Trường phái này công nhận con người có một cái Tôi thường hằng. Theo trường phái này thì có rất nhiều lý do khá đơn giản để thấy sự hiện hữu của một cái Tôi:
- Ai tu Thiền, ai đắc Thiền, ai đạt Niết Bàn?
- Ai tạo Nghiệp, ai là người thọ nhận hệ quả của Nghiệp Lực?
- Ai là sở hữu chủ của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức?
Cái Tôi vừa là sở hữu chủ, đồng thời cũng là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Có thể một số quý độc giả cho là cách trình bày này vi phạm nguyên tắc đồng nhất trong logic học (Trong quá trình lập luận mọi tư tưởng lập luận phải đồng nhất với chính nó). Câu trả lời là chính xác là: "đúng". Nhưng chúng ta nghĩ gì về trường hợp ánh sáng: Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng.
Để trả lời cho những câu hỏi “Ai” ở trên thì chính cái Tôi là đáp án.
Chính cái chìa khóa của việc gọi là Xuất Hồn nằm ở chổ này. Và cũng chính vì lý do này mà chúng ta phải đề cập nhiều lần về đề tài cái Tôi.
Thật vậy, nếu chúng ta khăng khăng chủ trương thuyết Vô Ngã thì việc Xuất Hồn thực tế không thể thực hiện được. Không có cái Tôi thì làm sao có thể Xuất cái Tôi? Thêm vào đó còn có những khó khăn bất cập. Nếu chúng ta chỉ có thân xác vật lý kèm với một số loại thân xác khác có những cái tên khác thì chúng ta vẫn thiếu một sở hữu chủ.
Nếu quý độc giả nắm được tinh thần những bộ Luận của trường phái Phật Giáo, thì không khó lắm để giải thích về vấn đề Hồn. Các lý thuyết khoa học hiện đại trong lãnh vực này, dường như không có khả năng để giúp chúng ta, do đó chúng ta không đề cập tới.
- Tam Tiểu Thư: Vậy theo ông thì cái gì đã tạo ra con người?
- Ông Tổng Quản: Thực tế có 4 yếu tố là:
1. Cái Tôi.
2. Các Tâm.
3. Các Sắc.
4. Cùng Năng lượng của Nghiệp Lực đã tạo ra một con người, đa dạng, uyển chuyển, luôn luôn thay đổi. Chính vì lý do "vạn vật biến chuyển không ngừng" nên khi nằm mơ, hoặc khi nhập định, chúng ta không bao giờ đến một nơi hai lần, gặp ai đó hai lần. Trường phái Phật Giáo có một phát biểu được coi như một định đề; đó là: "Tâm đứng đầu, Tâm tạo tác tất cả". Tâm chúng ta thì lại luôn luôn thay đổi, nên từ đó suy ra, chúng ta có vô số các loại Hồn tùy vào trạng thái cấu tạo Tâm của chúng ta.
- Tam Tiểu Thư: Nếu giải quyết được tư tưởng của hai vấn đề: Cái Tôi / Cái Hồn thì sẽ tập luyện xuất hồn như thế nào?
- Ông Tổng Quản: Tôi sẽ trình bày cho cô và quý độc giả những thao tác, những kỹ thuật của việc Xuất Hồn.
A. Bước chuẩn bị sơ bộ:
- Tìm một nơi, một địa điểm, có tính cách riêng tư, yên lặng.
- Cố sắp xếp thời gian thật sự không vướng bận.
- Thường xuyên tập luyện thể lực để có sức khỏe tốt.
- Một đời sống tinh thần tự nhiên, không gượng ép, không giả tạo, tránh đạo đức giả, tránh tạo vẻ thần bí thiêng liêng.
- Chọn một vị thế công phu không cầu kỳ, một vị thế phù hợp sức khỏe và tuổi tác của mình.
- Phải thư giãn thoải mái … nhiều người cho rằng vị thế nằm của người chết là tốt nhất, không làm trở ngại thần kinh và tuần Hồn .
B. Người ta khó có thể tin một người không có khả năng Nhập Định lại có thể Xuất Hồn được. Những từ ngữ mà người Tây Phương sử dụng lẫn lộn: Trạng thái Thôi Miên, Thiền Định, thư giãn … nó chỉ chính xác trong lãnh vực khoa học hiện đại. Nhưng trong lãnh vực Xuất Hồn, thì những từ ngữ nói trên bộc lộ, phản ảnh tính chất ngây thơ về lãnh vực này. Khả năng Thiền Định, Định Lực là một công cụ không thể thiếu được. Quý vị nào có ý định tập luyện bộ môn này phải vô cùng quan tâm, làm sao tạo cho mình có một tài khoản Định lực đáng tin cậy (nói theo từ ngữ máy tính). Thật vậy, thiếu Định lực phải bảo là một tai họa. Xuất Định, thối Định, không làm chủ được Định lực thì không thể tập được cái gì, trong đó tất nhiên có thao tác Xuất Hồn. Tài liệu của trường phái Phật Giáo cũng cho là "Thần Thông là hệ quả tất yếu của Tứ Thiền Hữu Sắc".
C. Trong lúc đang sinh hoạt bình thường, chúng ta phải tự khuyến dụ mình như sau: Tôi sẽ Nhập Định để Xuất Hồn (trong trường phái Thôi Miên, người ta gọi là khuyến dụ bằng lời nói Suggestion Verbale). Căn cứ vào kỹ thuật Tác Pháp của trường phái Mật Giáo và kỹ thuật Khuyến dụ bằng lời nói của trường phái Thôi Miên, thì việc tự khuyến dụ mình đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động tinh thần của mình.
Chúng ta bây giờ bước vào Nhập Định, cố gắng làm sao đạt được trạng thái định cao nhất, mạnh nhất, lâu dài nhất. Ở trong trạng thái này, Tôi sẽ ra một cái lệnh, ngắn gọn, dể hiểu, cương quyết và dứt khoát: "Tôi sẽ ra khỏi thân xác vật lý".
Tại sao chúng ta phải sử dụng công cụ Thiền Định? Căn cứ vào các tài liệu, và chính kinh nghiệm của người tu Thiền, thì khi Nhập Định, mức Định càng cao thì tâm lý chúng ta càng uyển chuyển, mềm dẻo, nhu nhuyễn, dễ bảo … Bất cứ ai có kinh nghiệm về Thiền Định đều thấy được điều này một cách rõ ràng. Chính ở trạng thái này Tôi mới có khả năng, có hy vọng, tách ra khỏi thân xác vật lý một cách chủ động.
Kỹ Thuật:
Đầu tiên chúng ta làm một thao tác đơn giản nhất là Tôi thấy Tôi ngồi ở một cái ghế nào đó, đối diện với thân xác vật lý đang ngồi Thiền Định.
- Tam Tiểu Thư: Điều này nói thì dễ, nhưng tôi nghĩ thực hiện sẽ vô cùng khó khăn. Ông đã từng giải thích rằng chúng ta được cấu tạo bởi 4 yếu tố. Những yếu tố này lại có tính chất cố hữu, lệ thuộc vào nhau và rất khó tách rời. Nay chúng ta muốn chủ động tách cái Tôi ra khỏi thân xác vật lý thì không phải chuyện dễ.
Mặt khác, ông cũng biết rằng chúng ta lại có một khuynh hướng bẩm sinh mang tính chất bản năng: Đó là sinh hoạt trong không gian 3, 4 chiều. Do đó, chúng ta phân biệt: Trước, sau, trên, dưới, trái, phải … Điều này là do thân xác mình có một bộ phận định hướng không gian nằm ở tai trong; từ ngữ y học gọi là tiền đình. Tiền đình có ba ống bán khuyên để nhận và truyền các thông số về toạ độ của đầu con người trong ba chiều không gian. Do đó cái Tôi xuất ra khỏi thân xác vật lý, rất khó để quay lại nhìn về phía thân xác vật lý, vì lý do ngược chiều trước sau giữa cái Tôi và thân xác vật lý.
Tôi cũng muốn hỏi ông là làm cách nào để xác định là cái Tôi đã ra ngoài thân xác vật lý rồi và đoan chắc điều này là có thật, chứ không phải chỉ là tưởng tượng?
- Ông Tổng Quản: Để chắc chắn điều đó thì ...
* Tôi phải liên tục duy trì Định Lực mạnh nhất có thể,
* Tôi tự thấy mình là ngồi ở một cái ghế nào đó trước mặt thân xác vật lý,
* Tôi tự bảo mình là nhìn về phía những đồ vật cùng với thân xác vật lý.
Việc này phải kiên trì, và phải dùng hết nghị lực. Có thể đến lúc nào đó, chúng ta thấy mình hoàn toàn đang hiện hữu ngồi ở cái ghế trước mặt thân xác vật lý, đồng thời dường như có khả năng nhìn về thân xác vật lý. Diễn tiến này đòi hỏi một nỗ lực tinh thần cao độ, một chất lượng của Thiền Định ở mức tốt nhất.
- Tam Tiểu Thư: Khi nhìn về phía đồ vật cùng với thân xác vật lý, thì ông sẽ thấy nó như thế nào? Nó có giống như lúc trước khi xuất cái Tôi ra không?
- Ông Tổng Quản: À! Chúng ta chỉ thấy thân xác vật lý thoáng qua thôi, không bao giờ nhìn thấy lâu. Sau đó thế giới khách quan ở phía thân xác vật lý sẽ hiện hữu tương xứng với cấu tạo cái Tôi của chúng ta. Cụ thể là, không phải chúng ta nhìn thấy căn phòng vật chất như nhiều người mô tả, mà thực sự chúng ta nhìn thấy thế giới tự nhiên khách quan tùy thuộc vào cấu tạo Tâm cái Tôi của mình.
- Tam Tiểu Thư: Ông cho tôi hỏi là tại sao khi mới xuất hồn ra thì mình lại thoáng thấy thân xác vật lý rồi sau đó không thấy nữa? Ông từng nói mình có thể xuất hồn khi nằm mơ phải không ông? Tôi từng nằm mơ và đúng như ông nói, tôi chẳng bao giờ thấy thân xác vật lý của tôi đang nằm ngủ cả. Tại sao vậy ông?
- Ông Tổng Quản: Vì cấu tạo Sắc của cái Tôi xuất ra này không giống với Sắc của thân xác vật lý. Cô biết là Sắc của thân xác vật lý gồm 28 yếu tố. Trong giai đoạn chuyển tiếp, Sắc của cái Tôi xuất ra chỉ hơi khác thân xác vật lý (thí dụ là 27 hoặc 27.5 yếu tố) nên cô có thể trông thấy thân xác này nhưng chỉ thoáng qua. Khi đã xuất ra lâu, thì cái Sắc của cái Tôi xuất ra sẽ khác đi nhiều. Do đó chúng ta sẽ thấy thế giới khách quan tương xứng với cấu tạo của cái Tôi này. Dĩ nhiên cái Thấy về thế giới của người xuất hồn này nó sẽ khác cái thấy về thế giới khách quan vật chất mà chúng ta đang sinh hoạt.
- Tam Tiểu Thư: Thôi tôi hiểu rồi. Cái Tôi xuất ra chắc chắn không thể thấy nhà cửa, bàn ghế, cây cối ... như người ta từng mô tả. Và rõ ràng là không có thể vào siêu thị chọn đồ để ngày mai quay lại mua!
- Ông Tổng Quản: Những gì mà chúng ta mô tả ở trên, chỉ là một trường hợp có tính chất tích cực nhất. Thực tế việc Xuất cái Tôi này nó lệ thuộc ở quá nhiều yếu tố nên người ta phải tập luyện nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm … Thậm chí có thể là không bao giờ thành công cả. Có thể có hai lý do cơ bản nhất và phổ biến nhất để lý giải việc thất bại:
* Thiếu kiến thức về lý thuyết và kỹ thuật, cái này có thể học được.
* Thiếu bản lĩnh về Thiền Định: Thật sự đây là một vấn đề rất khó giải quyết. Chúng ta phải nói thật, nói trung thực là không phải ai cũng có thể tập Thiền Định được.
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013
33 Cảnh giới:
I. Vô Sắc Giới
Thiền Vô Sắc Tuổi Thọ
1. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên 84.000 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Vô Sở hữu Xứ Thiên 60.000 "
3. Thức Vô Biên Xứ Thiên 40.000 "
4. Không Vô Biên Xứ Thiên 20.000 "
II. Sắc Giới
Tứ Thiền Sắc Giới
1. Vô Phiên Thiên 16.000 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Cảnh giới tối thượng 8.000 "
3. Cảnh giới quang đãng 4.000 "
4. Cảnh giới đẹp đẽ 2.000 "
5. Cảnh giới thanh tịnh 1.000 "
6. Cảnh giới trường cửu 500 "
7. Vô Tưởng Thiên 500 "
8. Quảng Quả Thiên
Tam Thiền Sắc Giới
1. Biến Tịnh Thiên 62 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Vô Lượng Tịnh Thiên 32 "
3. Thiền Tịnh Thiên 12 "
Nhị Thiền Sắc giới
1. Quang Âm Thiên 8 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Vô Lượng Quang Thiên 4 "
3. Thiều Quang Thiên 2 "
Sơ Thiền Sắc Giới
1. Đại Phạm Thiên 1 A-Tăng-Kỳ
2. Phạm Thiên Purohita 1/2 "
3. Phạm Chúng Thiên 1/3 "
III. Dục Giới
Lạc Cảnh - Trời Dục Giới
6. Tha Hóa Tự Tại 16.000 Thiên Niên
5. Hóa Lạc Thiên 8.000 "
4. Đấu Xuất Đà 4.000 "
3. Dạ Ma 2.000 "
2. Đạo Lợi 1.000 "
1. Tứ Đại Thiên Vương 500 "
Cảnh Người - Tuổi Thọ bất định
Khổ Cảnh
A Tu La Không giới hạn
Ngạ Quỉ Không giới hạn
Loài Thú Không giới hạn
Địa Ngục Không giới hạn
I. Vô Sắc Giới
Thiền Vô Sắc Tuổi Thọ
1. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên 84.000 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Vô Sở hữu Xứ Thiên 60.000 "
3. Thức Vô Biên Xứ Thiên 40.000 "
4. Không Vô Biên Xứ Thiên 20.000 "
II. Sắc Giới
Tứ Thiền Sắc Giới
1. Vô Phiên Thiên 16.000 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Cảnh giới tối thượng 8.000 "
3. Cảnh giới quang đãng 4.000 "
4. Cảnh giới đẹp đẽ 2.000 "
5. Cảnh giới thanh tịnh 1.000 "
6. Cảnh giới trường cửu 500 "
7. Vô Tưởng Thiên 500 "
8. Quảng Quả Thiên
Tam Thiền Sắc Giới
1. Biến Tịnh Thiên 62 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Vô Lượng Tịnh Thiên 32 "
3. Thiền Tịnh Thiên 12 "
Nhị Thiền Sắc giới
1. Quang Âm Thiên 8 Đại A-Tăng-Kỳ
2. Vô Lượng Quang Thiên 4 "
3. Thiều Quang Thiên 2 "
Sơ Thiền Sắc Giới
1. Đại Phạm Thiên 1 A-Tăng-Kỳ
2. Phạm Thiên Purohita 1/2 "
3. Phạm Chúng Thiên 1/3 "
III. Dục Giới
Lạc Cảnh - Trời Dục Giới
6. Tha Hóa Tự Tại 16.000 Thiên Niên
5. Hóa Lạc Thiên 8.000 "
4. Đấu Xuất Đà 4.000 "
3. Dạ Ma 2.000 "
2. Đạo Lợi 1.000 "
1. Tứ Đại Thiên Vương 500 "
Cảnh Người - Tuổi Thọ bất định
Khổ Cảnh
A Tu La Không giới hạn
Ngạ Quỉ Không giới hạn
Loài Thú Không giới hạn
Địa Ngục Không giới hạn
Con mắt thứ ba: Xuyên Vân Kiếm Pháp 38 ~ CTR
Tập 38: Trận Chiến Cuối Cùng Armageddon giữa Con Người và Thần Chết (phần 5)
Lý Thuyết và Kỹ Thuật Xuất Hồn dựa trên cơ sở tài liệu Luận và Thực Tế
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Chắc là tại kiến thức về Thiền Định của tôi rất giới hạn, cho nên sau bao nhiêu buổi nói chuyện với Ông, tôi vẫn cảm thấy lúng túng quá; chưa hình dung nổi Xuất Hồn là sao nữa. Lý thuyết tôi còn chưa thông, thì làm sao có đủ tự tin để tập luyện. Kể ông nghe chuyện này vui lắm. Tôi lang thang vào internet và đọc được vài tài liệu nói rất chi tiết tập Xuất Hồn, với thời gian chỉ cần 1 tháng thôi. Rất ấn tượng. Tuy nhiên dịch giả cuốn sách đã đưa ra thông báo quan trọng như sau:
"Nội dung của quyển sách nầy, chỉ dùng để đọc giải trí và tham khảo. Không được dùng để thực hành. Độc giả chịu hoàn toàn trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra cho mình về mọi mặt nếu thực hành theo nội dung trong sách đã chỉ dẫn !!!"
Tôi nói thẳng ông đừng buồn tôi nghe. Chẳng biết "Cuốn Tạp Thư" của Ông có gì hay về vấn đề này không, nhưng cá nhân tôi đọc nhiều sách báo nói về chuyện xuất hồn rồi. Tôi nghi là chẳng ai thực sự xuất hồn được trong lúc còn đang sống đâu.
- Ông Tổng Quản: Mặc dù chúng ta đã trao đổi qua nhiều buổi nói chuyện về vấn đề xuất hồn, nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải bàn tới. Lý do là vì vấn đề này có quá nhiều thông tin ngược chiều nhau, và người cung cấp thông tin đều là những tác giả lớn (của Pháp cũng như của Mỹ) về lãnh vực này. Chính vì vậy nó làm cho người tập xuất hồn chắc chắn phải lúng túng. Có một tác giả người Pháp, cho biết là khi xuất hồn, cái Hồn có thể để lại dấu tay trên bột mịn, trên bụi ở trần nhà. Tác giả này cho đó là bằng chứng cụ thể về việc xuất hồn. Trong khi một tài liệu khác được viết bằng tiếng Anh (tác giả này viết tới mấy chục cuốn sách, tự cho mình là đại diện cho trường phái mật giáo Tây Tạng) thì lại khẳng định là xuất hồn không để lại dấu tay. Ông giải thích như sau: "Vật chất Hồn có thể đi xuyên qua nhà cửa, sông núi … thì làm sao có thể để lại dấu tay trên bột mịn".
Mặt khác, các tác giả lại không đồng ý được với nhau Hồn là cái gì. Điều này thật là thách thức cho người tập luyện. Học xuất hồn mà chính mình không biết Hồn là cái gì thì kể ra hơi bị khó!
Kính thưa quý độc giả cùng Tam Tiểu Thư, bây giờ chúng ta tạm thời quy ước với nhau (như một mặc định): Sử dụng từ ngữ Hồn với ý nghĩa phổ cập nhất và dĩ nhiên rất thiếu chính xác. Quý vị bắt đầu thực tập. Thế rồi qua thời gian thực tập tính bằng nhiều năm tháng và có thể là nhiều thập kỷ, sau những thất bại chồng chất những thất bại, nếu may mắn thành công, thì chính quý vị sẽ vỡ lẽ cái Hồn là gì, và cái gì đã làm cho mình lầm lẫn mấy chục năm.
- Tam Tiểu Thư: Ông nói nghe nản quá. Tôi nghĩ ở thế gian này, tuýp người dấn thân để cầu tìm Chân Lý như ông hơi bị quá hiếm. Ông đã mất cả đời người để tu tập, chắc ông cũng không nỡ nào để Tam Tiểu Thư này phải thất bại chồng chất! Ông vui lòng chỉ lại cho tôi con đường Ông đã từng đi qua; và kể lại những gì Ông đã “vỡ lẽ” sau cả đời tu tập được không Ông?
- Ông Tổng Quản: Chắc chắn trong chúng ta, sẽ có người tự hỏi: Những vị viết những tài liệu về việc xuất hồn, không biết thực sự họ có xuất hồn được không? Vì căn cứ vào kinh nghiệm bản thân, mình tập theo cách họ chỉ dẫn, rồi sau những tháng, những năm chồng chất mình có xuất hồn được đâu.
Có một tác giả còn cho biết, sau khi xuất hồn ra khỏi cơ thể vật lý, họ có đến thăm viếng một dạng siêu thị. Họ có lựa chọn hàng hóa, giá cả, rồi hôm sau sẽ đi mua hàng.
Tình tiết này làm cho các khoa học gia hiện đại đưa ra những nhận xét như sau: Nếu xuất hồn có thể đi bất cứ nơi nào, thậm chí đến các hành tinh trong Thái Dương Hệ, thì tất nhiên các Hành Tinh ngoài Thái Dương Hệ cũng nằm trong tầm tay. Như vậy các cơ quan hàng không vũ trụ, khỏi cần phải tốn nhiều tỷ đô la để đưa xe tự hành lên sao hỏa. Việc ra lệnh và xe tự hành thực hiện được lệnh, mất trên hai chục phút với vận tốc của ánh sáng. Mặt khác, nếu việc xuất hồn được ứng dụng trong chiến tranh, thì phải nói là … không còn gì để nói nữa!
- Tam Tiểu Thư: Có những vị còn cho rằng người tu Thiền Định có khả năng phân ra hàng tỷ cái Thân tương tự rồi đi đến nơi kiểm tra khả năng tu tập của đệ tử hoặc để tham gia những hội nghị quan trọng nữa kìa.
Nền khoa học hiện đại thật là kỳ diệu, tôi thật biết ơn và thán phục công lao trí tuệ của các khoa học gia. Nhờ họ mà các tiện nghi trong cuộc sống bình thường còn hơn cả trong mơ, thậm chí còn hơn cả trong chuyện Phong Thần của Trung Quốc. Rõ ràng khoa học cũng là một dạng thần tiên. Thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ, kiếm quang, sai bảo thần linh … để làm những việc mình mong muốn đều trong tầm tay hiện tại của con người. Máy bay không người lái B47A chính là thần sấm thần sét … Kể cả tàng hình cũng đã thành hiện thực. Một người bình thường chỉ cần có khoảng trên 10 đô la Mỹ, với hệ thống Viettel là đã có thiên lý nhĩ … chẳng cần tu hành cho nhọc thân mệt xác, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt!
Nhưng ở một chừng mực nào đó, tôi thấy dường như khoa học là một người khổng lồ khuyết tật. Tôi quê mùa nên không biết diễn tả làm sao cho chính xác. Thôi để tôi diễn tả theo kiểu nông dân Việt Nam cho ông nghe nhé. Thí dụ là tôi yêu một ai đó. Dĩ nhiên là tôi cũng muốn người ta yêu tôi như tôi yêu người ta, nhưng khổ thay anh đó lại yêu cô khác! Vậy thì khoa học có thuốc gì để cho anh ta uống và đáp ứng được yêu cầu yêu của tôi không? Tôi có ra tiệm thuốc Tây ở trung tâm thành phố và hỏi mua, nhưng người ta trả lời hàng chưa về. Họ có bán thuốc để trợ giúp về tình dục, nhưng thuốc về tình yêu thì họ bảo: "Sorry, i cann't help".
Yêu là gì chỉ những chuyện vẫn không,
Vì thế nhân là bạc bẽo vô cùng,
Yêu một thuở để trọn đời cô độc!
Nếu có thuốc để chữa bệnh yêu, thì có lẽ không còn những vần thơ như trên. Khoa học thẩm mỹ của con người sẽ trở nên tẻ nhạt. Tôi cũng như mọi người đôi khi nằm mơ thấy ác mộng. Nếu tôi có hỏi Bác Sĩ để xin kê toa thì có lẽ … phải chờ đến kiếp sau mới có thuốc.
- Ông Tổng Quản: Những gì cô thắc mắc về nền văn minh khoa học kỹ thuật của con người là rất đúng. Gã khổng lồ khoa học dường như thiếu một chân để đứng cho vững. Thật vậy, chúng ta không tìm thấy một bộ môn khoa học nào nhằm chăm sóc sức khỏe tinh thần cho con người, chăm sóc tình cảm của con người, làm con người vơi đi nước mắt, giảm bớt khổ đau. Không có bộ môn khoa học nào thực sự xoa dịu được nổi đau của người mẹ khi đứa con chết trên tay mình. Người chết rồi chỉ còn một người bạn duy nhất là nỗi cô đơn …
Ðiều này không có gì là lạ, vì khoa học hiện đại là hệ quả của trí tuệ, của tư duy con người. Họ sử dụng luận lý hình thức quy ước, kinh điển … Đối tượng của khoa học là thế giới khách quan, vật chất từ vi mô (Microcosm) cho đến vĩ mô (Macrocosm). Khuynh hướng của khoa học hiện đại, ai cũng biết, là có tính hướng ngoại.
Các lý thuyết về vật lý nhiều vô số kể, lý thuyết nào cũng uyên bác, hoành tráng. Tác giả là các vị giáo hoàng về vật lý lý thuyết: Vũ trụ song song, vũ trụ toàn ảnh (Holographic Principle), vật chất tối, lỗ đen, lý thuyết thống nhất bốn tương tác.
Thế nhưng đời sống tinh thần của con người, đời sống tình cảm, đời sống gia đình … thì hình như không có gì được cải thiện. Một cô hoa hậu thế giới vẫn khóc vì bệnh ung thư … Về tình yêu thì không khác gì một cô gái vô danh trong thời tiền sử. Hận thù, bạo tàn, áp bức, đạo đức giả … Không thấy một lý thuyết khoa học nào tỏ ra hữu hiệu, để làm giảm bớt những tình cảm tiêu cực của con người nói trên.
- Tam Tiểu Thư: Nền khoa học hiện đại dường như không lấy con người làm trọng tâm, làm mục đích, làm cứu cánh cuối cùng. Nói một cách khác, nền khoa học hiện đại là một Thiên Thần gẫy cánh, cực kỳ thông minh, nhưng lại thiếu một lương tri, một ý thức đạo đức lành mạnh.
- Ông Tổng Quản: Việc Xuất Hồn muốn phát triển phải dựa vào một lý thuyết hợp logic, phù hợp với quy luật khách quan. Hiệu quả cuối cùng là khi ai đó tập mà xuất hồn được thực sự, thì đó chính là cái thước đo thực tế.
Cuốn Tạp Thư có một số thông tin có thể làm cho quý độc giả ngạc nhiên:
Những tài liệu như: Vi diệu pháp, tài liệu Patanjali, Tam Pháp Độ Luận … không phải là do con người bình thường viết ra và không phải là dành cho con người bình thường đọc. Nó được viết ra bởi các Thực Thể xuất hiện trong các trạng thái Định mà có. Nói một cách khác cho dễ hiểu, khi ai đó thật sự Nhập Định, họ tự chuyển hóa thành một con người khác, khác hẳn với con người mà họ sinh hoạt bình thường. Thực Thể này có một cấu tạo Tâm và Sắc, tùy theo tình trạng Định Tâm mà họ tồn tại. Thí dụ nếu hiện hữu ở Thiền Hữu Sắc thì họ có các thông tin của trình độ Thiền Hữu Sắc. Khi họ hiện hữu ở trạng thái Vô Tưởng Định, thì họ có những kiến thức, những thông tin hiểu biết tương ứng với môi trường họ đang sinh hoạt là Vô Tưởng Định.
Do đó, đối tượng của lý thuyết mà chúng ta đang đề cập tới là đối tượng phi vật chất, khác hẳn với đối tượng của khoa học hiện đại. Thêm vào đó, khuynh hướng của nó là hướng nội.
Rất nhiều quý độc giả từng đọc sách vở thiên kinh vạn quyển. Nhưng khi tiếp cận với những tài liệu nói trên thì cảm thấy vô cùng ngỡ ngàng. Lý do dễ hiểu là vì không có sự tương ưng giữa người đọc và tài liệu.
Thực sự, những tài liệu nói trên chính là Chân Kinh, là ngôi sao Bắc Đẩu, là máy định vị (GPS), là kho báu vô giá của người đắc Định thật sự. Chắc chắn trên tiến trình tập luyện, khi có những vướng mắc, khi có những việc không hiểu được, khi có hàng trăm hàng ngàn trở ngại … thì những tài liệu nói trên chính là người bạn đồng hành không thể thiếu, là người Thầy sáng suốt giải thích những khúc mắc.
Tài liệu này cần cho ai đó tập Xuất Hồn nói riêng và tu Thiền Định nói chung. Chúng ta sử dụng nó như một máy định vị. Nhờ nó chúng ta biết mình đang ở đâu, biết lộ trình mà chúng ta cần đi tới điểm cuối cùng. Như chúng ta đã nói ở trên những tài liệu này do những con người tu Thiền Định viết ra, căn cứ vào thực tế của Thực Chứng.
- Tam Tiểu Thư: Những gì ông nói khá ấn tượng. Vậy ông có thể trình bày Kỹ Thuật Xuất Hồn cho tôi nghe được không?
- Ông Tổng Quản: Ok
Bước đầu tiên để tập Xuất Hồn là chúng ta cần phải quy ước với nhau, mặc định với nhau cái Tôi là cái gì? Công việc này làm với mục đích duy nhất là để phục vụ cho việc Xuất Hồn được tiện lợi. Chính vì không xác định được, không định nghĩa được cái Tôi là cái gì, nên sẽ vô cùng lúng túng không biết phải làm sao. Chúng ta tạm quên đi những định nghĩa phổ cập của cái Tôi qua cái nhìn của khoa học, văn chương, triết học ... vì nó không thực tế cho bộ môn này, nó chỉ làm cho chúng ta thêm bối rối, vì thiếu tính chất nhất tâm khi cần ra một cái lệnh.
- Tam Tiểu Thư: Đồng ý với Ông. Theo Ông thì con người là cái gì?
- Ông Tổng Quản: Không phải là theo tôi, mà đúng hơn là theo thông tin của Cuốn Tạp Thư, thì con người được cấu tạo bởi 4 thành phần. Cách chia chẻ này chỉ có một mục đích duy nhất để phục vụ Kỹ Thuật Xuất Hồn, và nó cũng mang tinh thần của các bộ Luật. Bốn thành phần đó là:
* Một cái Tôi thường hằng.
* Những cái Tâm.
* Những yếu tố Sắc.
* Năng lượng tiềm ẩn: Nghiệp lực tích cực và tiêu cực.
Rất mong được Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả chấp nhận cách sắp xếp này. Tài liệu Tạp Thư còn nêu ra một tính chất đặc biệt của 4 yếu tố nói trên: Đó là tính chất cố hữu không thể tách rời, lệ thuộc vào nhau (inherent), hòa tan vào nhau, trộn lẫn vào nhau. Do đó đối với việc Xuất Hồn, chúng ta thấy ngay nó mang tính chất phản lại thiên nhiên.
Những yếu tố nói trên chỉ tách ra trong một số tình trạng như: Hôn mê, sử dụng chất say, uống rượu, ma túy, nằm mơ, chết, xuất hồn, thiền định …
Với đại đa số quần chúng, thậm chí cả với những vị đã tu Thiền Định vài chục năm, không phải ai cũng phân biệt được các trạng thái tương tự như Thiền Định. Các từ ngữ được sử dụng lại vô cùng đa dạng, mà thật sự người ta cũng chẳng biết nó là cái gì. Thí dụ:
* Get Into Hypnotic State.
* Deep Trance.
* Meditation.
* Astral travel (Astral projection).
* Leave or Enter the Body.
Nhập định, xuất thần, xuất hồn, xuất vía …
Người ta chỉ có thể giải thích được các trạng thái nói trên nếu thực sự hiểu được các lý thuyết mà ở trên đã đề cập đến, kèm với Thực Chứng kinh nghiệm của Thiền Định.
Cụ thể như sau: Thí dụ có một Thực Thể thường trực là cái "Tôi", cái "Tôi" này quan sát các Tâm cấu tạo nên bản thân tôi ở một giai đoạn nào đó, thì tôi biết "Tôi" là cái gì. Trong Thiền Định, khi cái "Tôi" quan sát thấy có năm Thiền Chi là: Tầm, Tứ, Nhất Tâm, Hỷ, Lạc; thì tôi kết luận "Tôi" là một Thực Thể ở Sơ Thiền Hữu Sắc. Sự hiểu biết do thao tác đơn giản này, có khi phải tập luyện mất mấy chục năm! Có khi không bao giờ tập được cả! Có thể do áp lực của Năng Lượng Nghiệp Lực Tiêu Cực tiềm ẩn làm cho chúng ta mờ đi, lý trí mê muội.
- Tam tiểu Thư: Người ta có bao nhiêu kênh (channel) để tạo trạng thái Xuất Hồn? Nếu có nhiều kênh thì cần phải hệ thống hóa cho dễ hiểu.
- Ông Tổng Quản: Cuốn Tạp Thư cho biết có 3 kênh, có 3 cái cửa để đi vào trạng thái Xuất Hồn. Ðây là 3 trạng thái ý thức của tâm lý học:
* Ý thức > Tiềm thức > Vô thức.
3 trạng thái ý thức của tâm lý học này có thể tìm thấy sự tương ứng với 17 sát na của Luồng Tâm Thức mà ai cũng biết.
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Lý Thuyết và Kỹ Thuật Xuất Hồn dựa trên cơ sở tài liệu Luận và Thực Tế
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Chắc là tại kiến thức về Thiền Định của tôi rất giới hạn, cho nên sau bao nhiêu buổi nói chuyện với Ông, tôi vẫn cảm thấy lúng túng quá; chưa hình dung nổi Xuất Hồn là sao nữa. Lý thuyết tôi còn chưa thông, thì làm sao có đủ tự tin để tập luyện. Kể ông nghe chuyện này vui lắm. Tôi lang thang vào internet và đọc được vài tài liệu nói rất chi tiết tập Xuất Hồn, với thời gian chỉ cần 1 tháng thôi. Rất ấn tượng. Tuy nhiên dịch giả cuốn sách đã đưa ra thông báo quan trọng như sau:
"Nội dung của quyển sách nầy, chỉ dùng để đọc giải trí và tham khảo. Không được dùng để thực hành. Độc giả chịu hoàn toàn trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra cho mình về mọi mặt nếu thực hành theo nội dung trong sách đã chỉ dẫn !!!"
Tôi nói thẳng ông đừng buồn tôi nghe. Chẳng biết "Cuốn Tạp Thư" của Ông có gì hay về vấn đề này không, nhưng cá nhân tôi đọc nhiều sách báo nói về chuyện xuất hồn rồi. Tôi nghi là chẳng ai thực sự xuất hồn được trong lúc còn đang sống đâu.
- Ông Tổng Quản: Mặc dù chúng ta đã trao đổi qua nhiều buổi nói chuyện về vấn đề xuất hồn, nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải bàn tới. Lý do là vì vấn đề này có quá nhiều thông tin ngược chiều nhau, và người cung cấp thông tin đều là những tác giả lớn (của Pháp cũng như của Mỹ) về lãnh vực này. Chính vì vậy nó làm cho người tập xuất hồn chắc chắn phải lúng túng. Có một tác giả người Pháp, cho biết là khi xuất hồn, cái Hồn có thể để lại dấu tay trên bột mịn, trên bụi ở trần nhà. Tác giả này cho đó là bằng chứng cụ thể về việc xuất hồn. Trong khi một tài liệu khác được viết bằng tiếng Anh (tác giả này viết tới mấy chục cuốn sách, tự cho mình là đại diện cho trường phái mật giáo Tây Tạng) thì lại khẳng định là xuất hồn không để lại dấu tay. Ông giải thích như sau: "Vật chất Hồn có thể đi xuyên qua nhà cửa, sông núi … thì làm sao có thể để lại dấu tay trên bột mịn".
Mặt khác, các tác giả lại không đồng ý được với nhau Hồn là cái gì. Điều này thật là thách thức cho người tập luyện. Học xuất hồn mà chính mình không biết Hồn là cái gì thì kể ra hơi bị khó!
Kính thưa quý độc giả cùng Tam Tiểu Thư, bây giờ chúng ta tạm thời quy ước với nhau (như một mặc định): Sử dụng từ ngữ Hồn với ý nghĩa phổ cập nhất và dĩ nhiên rất thiếu chính xác. Quý vị bắt đầu thực tập. Thế rồi qua thời gian thực tập tính bằng nhiều năm tháng và có thể là nhiều thập kỷ, sau những thất bại chồng chất những thất bại, nếu may mắn thành công, thì chính quý vị sẽ vỡ lẽ cái Hồn là gì, và cái gì đã làm cho mình lầm lẫn mấy chục năm.
- Tam Tiểu Thư: Ông nói nghe nản quá. Tôi nghĩ ở thế gian này, tuýp người dấn thân để cầu tìm Chân Lý như ông hơi bị quá hiếm. Ông đã mất cả đời người để tu tập, chắc ông cũng không nỡ nào để Tam Tiểu Thư này phải thất bại chồng chất! Ông vui lòng chỉ lại cho tôi con đường Ông đã từng đi qua; và kể lại những gì Ông đã “vỡ lẽ” sau cả đời tu tập được không Ông?
- Ông Tổng Quản: Chắc chắn trong chúng ta, sẽ có người tự hỏi: Những vị viết những tài liệu về việc xuất hồn, không biết thực sự họ có xuất hồn được không? Vì căn cứ vào kinh nghiệm bản thân, mình tập theo cách họ chỉ dẫn, rồi sau những tháng, những năm chồng chất mình có xuất hồn được đâu.
Có một tác giả còn cho biết, sau khi xuất hồn ra khỏi cơ thể vật lý, họ có đến thăm viếng một dạng siêu thị. Họ có lựa chọn hàng hóa, giá cả, rồi hôm sau sẽ đi mua hàng.
Tình tiết này làm cho các khoa học gia hiện đại đưa ra những nhận xét như sau: Nếu xuất hồn có thể đi bất cứ nơi nào, thậm chí đến các hành tinh trong Thái Dương Hệ, thì tất nhiên các Hành Tinh ngoài Thái Dương Hệ cũng nằm trong tầm tay. Như vậy các cơ quan hàng không vũ trụ, khỏi cần phải tốn nhiều tỷ đô la để đưa xe tự hành lên sao hỏa. Việc ra lệnh và xe tự hành thực hiện được lệnh, mất trên hai chục phút với vận tốc của ánh sáng. Mặt khác, nếu việc xuất hồn được ứng dụng trong chiến tranh, thì phải nói là … không còn gì để nói nữa!
- Tam Tiểu Thư: Có những vị còn cho rằng người tu Thiền Định có khả năng phân ra hàng tỷ cái Thân tương tự rồi đi đến nơi kiểm tra khả năng tu tập của đệ tử hoặc để tham gia những hội nghị quan trọng nữa kìa.
Nền khoa học hiện đại thật là kỳ diệu, tôi thật biết ơn và thán phục công lao trí tuệ của các khoa học gia. Nhờ họ mà các tiện nghi trong cuộc sống bình thường còn hơn cả trong mơ, thậm chí còn hơn cả trong chuyện Phong Thần của Trung Quốc. Rõ ràng khoa học cũng là một dạng thần tiên. Thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ, kiếm quang, sai bảo thần linh … để làm những việc mình mong muốn đều trong tầm tay hiện tại của con người. Máy bay không người lái B47A chính là thần sấm thần sét … Kể cả tàng hình cũng đã thành hiện thực. Một người bình thường chỉ cần có khoảng trên 10 đô la Mỹ, với hệ thống Viettel là đã có thiên lý nhĩ … chẳng cần tu hành cho nhọc thân mệt xác, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt!
Nhưng ở một chừng mực nào đó, tôi thấy dường như khoa học là một người khổng lồ khuyết tật. Tôi quê mùa nên không biết diễn tả làm sao cho chính xác. Thôi để tôi diễn tả theo kiểu nông dân Việt Nam cho ông nghe nhé. Thí dụ là tôi yêu một ai đó. Dĩ nhiên là tôi cũng muốn người ta yêu tôi như tôi yêu người ta, nhưng khổ thay anh đó lại yêu cô khác! Vậy thì khoa học có thuốc gì để cho anh ta uống và đáp ứng được yêu cầu yêu của tôi không? Tôi có ra tiệm thuốc Tây ở trung tâm thành phố và hỏi mua, nhưng người ta trả lời hàng chưa về. Họ có bán thuốc để trợ giúp về tình dục, nhưng thuốc về tình yêu thì họ bảo: "Sorry, i cann't help".
Yêu là gì chỉ những chuyện vẫn không,
Vì thế nhân là bạc bẽo vô cùng,
Yêu một thuở để trọn đời cô độc!
Nếu có thuốc để chữa bệnh yêu, thì có lẽ không còn những vần thơ như trên. Khoa học thẩm mỹ của con người sẽ trở nên tẻ nhạt. Tôi cũng như mọi người đôi khi nằm mơ thấy ác mộng. Nếu tôi có hỏi Bác Sĩ để xin kê toa thì có lẽ … phải chờ đến kiếp sau mới có thuốc.
- Ông Tổng Quản: Những gì cô thắc mắc về nền văn minh khoa học kỹ thuật của con người là rất đúng. Gã khổng lồ khoa học dường như thiếu một chân để đứng cho vững. Thật vậy, chúng ta không tìm thấy một bộ môn khoa học nào nhằm chăm sóc sức khỏe tinh thần cho con người, chăm sóc tình cảm của con người, làm con người vơi đi nước mắt, giảm bớt khổ đau. Không có bộ môn khoa học nào thực sự xoa dịu được nổi đau của người mẹ khi đứa con chết trên tay mình. Người chết rồi chỉ còn một người bạn duy nhất là nỗi cô đơn …
Ðiều này không có gì là lạ, vì khoa học hiện đại là hệ quả của trí tuệ, của tư duy con người. Họ sử dụng luận lý hình thức quy ước, kinh điển … Đối tượng của khoa học là thế giới khách quan, vật chất từ vi mô (Microcosm) cho đến vĩ mô (Macrocosm). Khuynh hướng của khoa học hiện đại, ai cũng biết, là có tính hướng ngoại.
Các lý thuyết về vật lý nhiều vô số kể, lý thuyết nào cũng uyên bác, hoành tráng. Tác giả là các vị giáo hoàng về vật lý lý thuyết: Vũ trụ song song, vũ trụ toàn ảnh (Holographic Principle), vật chất tối, lỗ đen, lý thuyết thống nhất bốn tương tác.
Thế nhưng đời sống tinh thần của con người, đời sống tình cảm, đời sống gia đình … thì hình như không có gì được cải thiện. Một cô hoa hậu thế giới vẫn khóc vì bệnh ung thư … Về tình yêu thì không khác gì một cô gái vô danh trong thời tiền sử. Hận thù, bạo tàn, áp bức, đạo đức giả … Không thấy một lý thuyết khoa học nào tỏ ra hữu hiệu, để làm giảm bớt những tình cảm tiêu cực của con người nói trên.
- Tam Tiểu Thư: Nền khoa học hiện đại dường như không lấy con người làm trọng tâm, làm mục đích, làm cứu cánh cuối cùng. Nói một cách khác, nền khoa học hiện đại là một Thiên Thần gẫy cánh, cực kỳ thông minh, nhưng lại thiếu một lương tri, một ý thức đạo đức lành mạnh.
- Ông Tổng Quản: Việc Xuất Hồn muốn phát triển phải dựa vào một lý thuyết hợp logic, phù hợp với quy luật khách quan. Hiệu quả cuối cùng là khi ai đó tập mà xuất hồn được thực sự, thì đó chính là cái thước đo thực tế.
Cuốn Tạp Thư có một số thông tin có thể làm cho quý độc giả ngạc nhiên:
Những tài liệu như: Vi diệu pháp, tài liệu Patanjali, Tam Pháp Độ Luận … không phải là do con người bình thường viết ra và không phải là dành cho con người bình thường đọc. Nó được viết ra bởi các Thực Thể xuất hiện trong các trạng thái Định mà có. Nói một cách khác cho dễ hiểu, khi ai đó thật sự Nhập Định, họ tự chuyển hóa thành một con người khác, khác hẳn với con người mà họ sinh hoạt bình thường. Thực Thể này có một cấu tạo Tâm và Sắc, tùy theo tình trạng Định Tâm mà họ tồn tại. Thí dụ nếu hiện hữu ở Thiền Hữu Sắc thì họ có các thông tin của trình độ Thiền Hữu Sắc. Khi họ hiện hữu ở trạng thái Vô Tưởng Định, thì họ có những kiến thức, những thông tin hiểu biết tương ứng với môi trường họ đang sinh hoạt là Vô Tưởng Định.
Do đó, đối tượng của lý thuyết mà chúng ta đang đề cập tới là đối tượng phi vật chất, khác hẳn với đối tượng của khoa học hiện đại. Thêm vào đó, khuynh hướng của nó là hướng nội.
Rất nhiều quý độc giả từng đọc sách vở thiên kinh vạn quyển. Nhưng khi tiếp cận với những tài liệu nói trên thì cảm thấy vô cùng ngỡ ngàng. Lý do dễ hiểu là vì không có sự tương ưng giữa người đọc và tài liệu.
Thực sự, những tài liệu nói trên chính là Chân Kinh, là ngôi sao Bắc Đẩu, là máy định vị (GPS), là kho báu vô giá của người đắc Định thật sự. Chắc chắn trên tiến trình tập luyện, khi có những vướng mắc, khi có những việc không hiểu được, khi có hàng trăm hàng ngàn trở ngại … thì những tài liệu nói trên chính là người bạn đồng hành không thể thiếu, là người Thầy sáng suốt giải thích những khúc mắc.
Tài liệu này cần cho ai đó tập Xuất Hồn nói riêng và tu Thiền Định nói chung. Chúng ta sử dụng nó như một máy định vị. Nhờ nó chúng ta biết mình đang ở đâu, biết lộ trình mà chúng ta cần đi tới điểm cuối cùng. Như chúng ta đã nói ở trên những tài liệu này do những con người tu Thiền Định viết ra, căn cứ vào thực tế của Thực Chứng.
- Tam Tiểu Thư: Những gì ông nói khá ấn tượng. Vậy ông có thể trình bày Kỹ Thuật Xuất Hồn cho tôi nghe được không?
- Ông Tổng Quản: Ok
Bước đầu tiên để tập Xuất Hồn là chúng ta cần phải quy ước với nhau, mặc định với nhau cái Tôi là cái gì? Công việc này làm với mục đích duy nhất là để phục vụ cho việc Xuất Hồn được tiện lợi. Chính vì không xác định được, không định nghĩa được cái Tôi là cái gì, nên sẽ vô cùng lúng túng không biết phải làm sao. Chúng ta tạm quên đi những định nghĩa phổ cập của cái Tôi qua cái nhìn của khoa học, văn chương, triết học ... vì nó không thực tế cho bộ môn này, nó chỉ làm cho chúng ta thêm bối rối, vì thiếu tính chất nhất tâm khi cần ra một cái lệnh.
- Tam Tiểu Thư: Đồng ý với Ông. Theo Ông thì con người là cái gì?
- Ông Tổng Quản: Không phải là theo tôi, mà đúng hơn là theo thông tin của Cuốn Tạp Thư, thì con người được cấu tạo bởi 4 thành phần. Cách chia chẻ này chỉ có một mục đích duy nhất để phục vụ Kỹ Thuật Xuất Hồn, và nó cũng mang tinh thần của các bộ Luật. Bốn thành phần đó là:
* Một cái Tôi thường hằng.
* Những cái Tâm.
* Những yếu tố Sắc.
* Năng lượng tiềm ẩn: Nghiệp lực tích cực và tiêu cực.
Rất mong được Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả chấp nhận cách sắp xếp này. Tài liệu Tạp Thư còn nêu ra một tính chất đặc biệt của 4 yếu tố nói trên: Đó là tính chất cố hữu không thể tách rời, lệ thuộc vào nhau (inherent), hòa tan vào nhau, trộn lẫn vào nhau. Do đó đối với việc Xuất Hồn, chúng ta thấy ngay nó mang tính chất phản lại thiên nhiên.
Những yếu tố nói trên chỉ tách ra trong một số tình trạng như: Hôn mê, sử dụng chất say, uống rượu, ma túy, nằm mơ, chết, xuất hồn, thiền định …
Với đại đa số quần chúng, thậm chí cả với những vị đã tu Thiền Định vài chục năm, không phải ai cũng phân biệt được các trạng thái tương tự như Thiền Định. Các từ ngữ được sử dụng lại vô cùng đa dạng, mà thật sự người ta cũng chẳng biết nó là cái gì. Thí dụ:
* Get Into Hypnotic State.
* Deep Trance.
* Meditation.
* Astral travel (Astral projection).
* Leave or Enter the Body.
Nhập định, xuất thần, xuất hồn, xuất vía …
Người ta chỉ có thể giải thích được các trạng thái nói trên nếu thực sự hiểu được các lý thuyết mà ở trên đã đề cập đến, kèm với Thực Chứng kinh nghiệm của Thiền Định.
Cụ thể như sau: Thí dụ có một Thực Thể thường trực là cái "Tôi", cái "Tôi" này quan sát các Tâm cấu tạo nên bản thân tôi ở một giai đoạn nào đó, thì tôi biết "Tôi" là cái gì. Trong Thiền Định, khi cái "Tôi" quan sát thấy có năm Thiền Chi là: Tầm, Tứ, Nhất Tâm, Hỷ, Lạc; thì tôi kết luận "Tôi" là một Thực Thể ở Sơ Thiền Hữu Sắc. Sự hiểu biết do thao tác đơn giản này, có khi phải tập luyện mất mấy chục năm! Có khi không bao giờ tập được cả! Có thể do áp lực của Năng Lượng Nghiệp Lực Tiêu Cực tiềm ẩn làm cho chúng ta mờ đi, lý trí mê muội.
- Tam tiểu Thư: Người ta có bao nhiêu kênh (channel) để tạo trạng thái Xuất Hồn? Nếu có nhiều kênh thì cần phải hệ thống hóa cho dễ hiểu.
- Ông Tổng Quản: Cuốn Tạp Thư cho biết có 3 kênh, có 3 cái cửa để đi vào trạng thái Xuất Hồn. Ðây là 3 trạng thái ý thức của tâm lý học:
* Ý thức > Tiềm thức > Vô thức.
3 trạng thái ý thức của tâm lý học này có thể tìm thấy sự tương ứng với 17 sát na của Luồng Tâm Thức mà ai cũng biết.
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Con mắt thứ ba: Xuyên Vân Kiếm Pháp 37 ~ CTR
Tập 37: Trận Chiến Cuối Cùng Armageddon giữa Con Người và Thần Chết (Phần 4)
Tự đào luyện kỹ năng Xuất Hồn (sic) là tiền đề cho việc bỏ xác mai sau (tiếp theo)
- Ông Tổng Quản (nói tiếp): Đến đây thì quý độc giả cũng như Tam Tiểu Thư có thể tự trả lời câu hỏi do chính mình đặt ra, là tại sao ngày nay người ta không sử dụng được kỹ thuật như ngài Sakya Muni để bỏ xác. Ai cũng biết mình không thể có cái mình không có; đơn giản là có tu thiền định đâu mà sử dụng kỹ thuật thiền định! Ai cũng biết bản thân ngài Sakya Muni không hề niệm câu Nam mô A Di Đà Phật để nhập định. Xin được nhắc lại, Chánh Định của trường phái Phật Giáo là “Chú tâm vào một vật duy nhất”; chứ không phải là niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật theo ngài Tuệ Viễn người Trung Quốc. Cần phải nói rõ một điều, khoa học chỉ quan tâm đến sự hiểu biết, chứ không phân biệt tác giả có quốc tịch nào.
Sở dĩ phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề này vì Thiền Định chính là cột trụ, là nền móng để tập luyện việc Xuất Hồn. Khi đang đọc những dòng chữ này, có thể có quý độc giả không ngờ Chánh Định lại đơn giản và quan trọng đến thế. Người ta thường nói các tư tưởng lớn gặp nhau. Người Pháp nói: “Porter vortre attention sur … votre tete”. Người Mỹ nói: “focus on an object until you can visualize perfectly”. Qua quá trình tập luyện, quý độc giả sẽ tự mình phát hiện ra tính chất hiệu quả của nó. Thực tế cho biết là muốn làm cho tư tưởng dừng lại, không có cách nào khác. Đúng hay sai, chúng ta sẽ đánh giá qua thực hành.
Để tạo điều kiện tiếp cận việc Xuất Hồn, về mặt lý thuyết cũng như mặt thực hành, có lẽ chúng ta nên thỏa thuận với nhau về ý nghĩa của từ ngữ Xuất Hồn để tránh ngộ nhận, hiểu lầm.
Hiện tượng mà chúng ta gọi là Xuất Hồn (O.B.E, N D E, ASTRAL PROJECTION …) đã có từ lâu qua nhiều nền văn hóa trên thế giới: Thánh Kinh Cơ Đốc Giáo, Trường phái Thông Thiên Học, Hồi Giáo, Mật Giáo, cổ Ai Cập, Trung quốc, Ấn Độ, Nhật Bản v.v… Nhưng từ ngữ để mô tả hiện tượng này thì quá khác biệt, có lẽ vì tính chất mơ hồ của hiện tượng. Thử đan cử một số từ ngữ của một số ngôn ngữ quen thuộc của người Việt Nam trong thời gian gần đây. Người Pháp gọi là “dedoublement”, người Mỹ gọi là “The soul, astral body, person spirit”. Họ còn gọi chung một từ ngữ là “apparition”. Việt Nam gọi là: Hồn, Vía, Vong Linh. Để tiện dụng, xin đề nghị chúng ta thống nhất dùng từ “Hồn” trong bài viết này. Tuy nhiên không nên ngộ nhận từ ngữ và thực tế. Thực tế việc chúng ta gọi là Xuất Hồn, thì không phải là xuất cái Hồn mà là xuất cái Tôi. Trường phái Phật Giáo gọi là “pudgala”. Cái Hồn chỉ là một trong nhiều dạng thân xác của một cơ thể vật lý. Nói một cách khác, cái Hồn mà không có cái Tôi, thì nó chỉ là một thây ma vô dụng. Vì thế nếu chỉ Xuất Hồn (astral projection), thì đó là một việc làm vô nghĩa, cái Hồn trở thành một thứ zombie tẻ nhạt, chán ngắt! Việc này chúng ta sẽ trở lại khi tiếp cận với chuyên đề.
Có lẽ vì không giải quyết được ẩn số này, hay nói một cách khác, những người thực hiện việc Xuất Hồn (practitionner), cũng như khoa học gia hiện đại; nếu căn cứ vào các tài liệu được đăng tải trên các phương tiện truyền thông, thì rõ ràng người ta không tìm được đáp án cho bài toán Xuất Hồn. Cả người tập luyện lẫn khoa học gia đều cho là có một cái Hồn đi ra khỏi cơ thể vật lý. Cái Hồn này thậm chí đi đến tận sao Mộc (Jupiter) để quan sát. Người ta đã tranh luận về độ chính xác của việc quan sát này. Khoa học gia thì cho rằng mức độ chính xác chỉ khoảng 37%. Kết quả này không thuyết phục và không gây ấn tượng.
Thông tin của cuốn Tạp Thư thì cho biết, cái Hồn (kể cả cộng chung với cái Tôi) khi Xuất ra, thì tuyệt đối không có khả năng, cũng như không có những giác quan tương thích, để quan sát thế giới vật chất tự nhiên của con người. Nói tóm lại, người ta tranh luận một việc không có thật.
- Tam Tiểu Thư: Nếu tôi nhớ không lầm, thì ông từng nói có rất nhiều trường phái dạy cách Xuất Hồn, đúng không ông? Theo cơ chế thị trường, khi ông tiếp thị một sản phẩm, thì chí ít ông cũng phải giới thiệu về nguồn gốc, tính năng, giá cả … chính sách hậu mãi nữa chứ. Như thế người tiêu dùng tùy vào sức lực, nhất là khả năng kinh tế để chọn lựa cái gì phù hợp cho mình. Thời buổi này, kể cả kỹ thuật Xuất Hồn, cũng phải cảnh giác với hàng kém chất lượng, tai hại hơn nữa là hàng nhái, hàng dỏm!
Để tôi trình bày cho cô nghe một vài trường phái Xuất Hồn; nhưng không ai dám bảo đảm là những trường phái được trình bày sau đây thực sự làm người ta Xuất được Hồn.
Trước nhất xin trình bày trường phái của người Pháp đã có hơn trăm năm nay. Đây là sản phẩm “frabrique en france” dựa trên cơ sở khoa học thực nghiệm. Tác giả cho biết, khi Xuất Hồn ra khỏi thân xác vât lý, Hồn có thể để lại vân tay, dấu tay trên bột mì, trần nhà. Sau này khi trình bày kỹ thuật tập luyện, chính quý độc giả có thể tự đánh giá là việc này có hay không. Thật vậy, nếu có thể để lại được dấu vân tay thì quá thuyết phục, nhưng vấn đề là có để lại được vân tay hay không?
Sản phẩm tiếp theo có nguồn gốc từ Anh Quốc; “Made in England”; bây giờ là sản phẩm của Hoa Kỳ. Quý vị có thể tìm trên những trang web những bài viết, những bước để tập luyện, những video clip của rất nhiều tác giả thực hiện luyện tập; nhưng những người phản biện cũng đông đảo không kém. Có quá nhiều từ ngữ để phản biện: Tưởng tượng, nằm mơ, mất trí, “out of mind”. Nhẹ hơn thì: không thuyết phục, không gây ấn tượng. Chúng ta sẽ tiếp tục đề cập tới trong những phần sau.
- Tam Tiểu Thư: Thôi đi ông Tổng Quản ơi, ông có vẻ “sính ngoại” quá đi. Mình người Việt thì xài hàng Việt đi ông. Chả lẽ Việt Nam không ai Xuất Hồn được? Hơn nữa, theo ý tôi thì cơ thể các sắc dân về di truyền là khác nhau. Biết đâu phương pháp Xuất Hồn dành cho dân Tây thì đối người Việt nó lại không hiệu quả?
- Ông Tổng Quản: Cuối cùng tôi sẽ nói về một sản phẩm có nguồn gốc khá khiêm tốn và mang tiếng là tiêu cực. Không nói chắc quý vị cũng biết ngay đây là sản phẩm “made in Viet Nam”. Sản phẩm có ưu điểm duy nhất mà chắc chắn quý vị sẽ hưởng được khi sử dụng nó, là không sợ đụng hàng. Hy vọng những quý vị là người Việt Nam sẽ ủng hộ hàng nội địa. Biết đâu “phát minh thường của người ngoại đạo”.
Trước khi trình bày, chúng ta cũng nên quan tâm tới những quan điểm phản biện, mà người ta gọi là hiểu và giải thích một cách bi quan (skeptical interpretation). Không phải người ta chỉ hoài nghi về vấn đề Xuất Hồn mà còn về rất nhiều vấn đề khác nữa. Có người cho việc Xuất Hồn; nói nghe có vẻ Việt Nam; là nhảm nhí, là chuyện vặt vãnh, là giai thoại (anecdotal). Họ sẽ tin và không còn gì để bàn cãi chỉ khi nào bắt được một cái Hồn do ai đó Xuất ra, hay bắt được một con Ma đang lang thang không nơi cư trú. Việc này có lẽ chúng ta không bao giờ có thể thực hiện được vì những lý do sau:
- Luận lý hình thức bảo thủ của chúng ta là trở ngại để xây dựng lý thuyết.
- Máy móc của chúng ta không có những bộ phận cảm ứng tương thích.
- Nền khoa học duy vật là một vỏ bọc đã để lộ những giới hạn của nó.
Có thể vì những lý do nêu trên, nên khi đứng trước những hiện tượng vượt qua những giới hạn hiểu biết của khoa học, người ta mới phát biểu: “because there is no evidence that the soul exists”, “không có bằng chứng là có hồn”.
Sự thật thì bằng chứng khoa học là cái gì? Khoa học, bắt nguồn từ chữ La-Tinh có nghĩa là hiểu biết. Tất nhiên có nhiều hệ thống hiểu biết. Lịch sử cho biết nếu chủ quan chỉ cho hệ thống của mình là đúng, hệ thống hiểu biết khác là không đúng, thì con người biến thành con vật thử nghiệm đáng thương của một loại chủ thuyết cực đoan. Người ta đã nhân danh một hệ thống nào đó, rồi đưa thiên tài Bruno lên giàn hỏa, giam Copernicus trong một tháp chuông! Chỉ vì một hệ thống tư duy không đúng đã tiêu tốn của nhân loại bốn, năm chục triệu người. Khổ nỗi lịch sử lại có vẻ như chu kỳ chứ không phải là trục hệ. Cái gì không phù hợp với kiểu khoa học của mình thì gọi là giả, mơ, tưởng tượng (pseudo science, dream state, imagining).
Nếu đặt giả thuyết Chết không phải là hết, mà chỉ là thay đổi trạng thái hiện hữu, thay đổi môi trường hiện hữu; thì những vị khoa học gia từng tuyên bố như trên, có lẽ sẽ thấy mình hụt hẫng!
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Mình tuy sinh hoạt nơi rừng rú nông thôn, nhưng tôi cũng có nhận xét là chủ nghĩa cực đoan dường như đồng nghĩa với chủ nghĩa phiêu lưu. Tôi thấy Tây, Tàu, và cả Ấn Độ nữa, họ hay đề cập tới chủ thuyết Trung Dung, âm dương hòa hợp. Ông thấy đấy, trong bộ môn Châm Cứu, thực tế cũng cho biết là muốn đưa đến tình trạng ổn định, quân bình, thì khi châm huyệt âm cũng thời châm một huyệt dương.
- Ông Tổng Quản: Các bộ môn khoa học thường có nhận xét ở mức độ tư tưởng khá giống nhau, thí dụ như: “không có gì tự nhiên mà có, không có gì tự nhiên mà mất”. Bộ môn khác thì cho biết “không thể tạo ra năng lượng, không thể làm mất đi năng lượng”. Hình như phát biểu này đến bây giờ cũng không bị vi phạm. Có lẽ ai cũng biết không thể có cái máy vĩnh cửu. Cũng chính vì lý do này mà xe hơi chạy điện không được đón chào, xe tạp chủng (hybrid) vẫn là giải pháp tình thế. Điều này cho thấy khái niệm của nhiệt động lực học đã chi phối một cách triệt để. Rõ ràng là năng lượng không thể tự nhiên mà có. Ở thế giới Vi Mô (microcosm) cũng như Vĩ Mô (macrocrosm), chúng ta không thể tìm ra một cái gì đó ở trạng thái không vận động, không thể tìm ra một cái gì đó chỉ có một tính chất. Cứ cho là chủ nghĩa Duy Vật có một giá trị tuyệt đối, thì con người Duy Vật chúng ta cũng phải nằm trong hệ thống Duy Vật nói chung. Hai tính chất mà con người phải có là: Tính chất vận động và phải có nhiều tính chất không thể nào có một. Vấn đề thực sự chỉ còn là vấn đề của từ ngữ. Cụ thể là từ ngữ có thể Duy Tâm hoặc Duy Vật; nó lệ thuộc vào quan điểm của từng cá nhân hay xã hội. Tóm lại, Chết chỉ là sự thay đổi của trạng thái hiện hữu.
Kinh nghiệm dân gian trên khắp thế giới, dù ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thì những ngôn ngữ được biết tới, đều có sử dụng từ ngữ: MA. Chỉ cần hỏi một người bất kỳ về vấn đề liên quan tới Ma hoặc Vong Linh, Hồn, Vía … thì câu trả lời chắc chắn sẽ là: Tôi đã được nghe nói về vấn này hoặc chính tôi đã thấy Ma trực tiếp không qua trung gian ai cả. Có thể đưa ra một so sánh dân giả như sau: Trong thời thế chiến thứ 2 (1940-1945), do nhu cầu của chiến tranh, radar đã ra đời. Nó được mô tả là đôi mắt ma thuật (oeil magique), nhờ vậy mà Anh Quốc tránh được tổn thất do không lực của Đức (Royal Air Force), có đủ thời gian để truy cản. Nhưng bây giờ với kỹ thuật tàng hình (Stealth) của B1, B2, F22, F35 … radar khó mà phát hiện, nghĩa là thực tế sẽ không nhìn thấy. Thế nhưng đừng quên rằng máy bay của kẻ thù là một hiểm họa có thật. Nói cách khác, radar khó phát hiện không có nghĩa cuộc tấn công không lực là không có.
Việc báo mộng là một mô hình mang tính chất điển hình và phổ cập. Nó được các thực thể gọi là Ma, sử dụng rộng rãi. Có thể có nhiều quý độc giả từng là chứng nhân của hiện tượng này. Bất cứ ai cũng có thể đọc những tài liệu phổ thông trên thế giới, kể là người Chết đã hiện về báo tin cho thân nhân là họ đã chết, trước khi thân nhân nhận được điện tín báo về cái chết của họ (vào giai đoạn này chưa có cell phone, email … nên việc thông tin nhanh nhất là nhờ vào điện tín).
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Tự đào luyện kỹ năng Xuất Hồn (sic) là tiền đề cho việc bỏ xác mai sau (tiếp theo)
- Ông Tổng Quản (nói tiếp): Đến đây thì quý độc giả cũng như Tam Tiểu Thư có thể tự trả lời câu hỏi do chính mình đặt ra, là tại sao ngày nay người ta không sử dụng được kỹ thuật như ngài Sakya Muni để bỏ xác. Ai cũng biết mình không thể có cái mình không có; đơn giản là có tu thiền định đâu mà sử dụng kỹ thuật thiền định! Ai cũng biết bản thân ngài Sakya Muni không hề niệm câu Nam mô A Di Đà Phật để nhập định. Xin được nhắc lại, Chánh Định của trường phái Phật Giáo là “Chú tâm vào một vật duy nhất”; chứ không phải là niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật theo ngài Tuệ Viễn người Trung Quốc. Cần phải nói rõ một điều, khoa học chỉ quan tâm đến sự hiểu biết, chứ không phân biệt tác giả có quốc tịch nào.
Sở dĩ phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề này vì Thiền Định chính là cột trụ, là nền móng để tập luyện việc Xuất Hồn. Khi đang đọc những dòng chữ này, có thể có quý độc giả không ngờ Chánh Định lại đơn giản và quan trọng đến thế. Người ta thường nói các tư tưởng lớn gặp nhau. Người Pháp nói: “Porter vortre attention sur … votre tete”. Người Mỹ nói: “focus on an object until you can visualize perfectly”. Qua quá trình tập luyện, quý độc giả sẽ tự mình phát hiện ra tính chất hiệu quả của nó. Thực tế cho biết là muốn làm cho tư tưởng dừng lại, không có cách nào khác. Đúng hay sai, chúng ta sẽ đánh giá qua thực hành.
Để tạo điều kiện tiếp cận việc Xuất Hồn, về mặt lý thuyết cũng như mặt thực hành, có lẽ chúng ta nên thỏa thuận với nhau về ý nghĩa của từ ngữ Xuất Hồn để tránh ngộ nhận, hiểu lầm.
Hiện tượng mà chúng ta gọi là Xuất Hồn (O.B.E, N D E, ASTRAL PROJECTION …) đã có từ lâu qua nhiều nền văn hóa trên thế giới: Thánh Kinh Cơ Đốc Giáo, Trường phái Thông Thiên Học, Hồi Giáo, Mật Giáo, cổ Ai Cập, Trung quốc, Ấn Độ, Nhật Bản v.v… Nhưng từ ngữ để mô tả hiện tượng này thì quá khác biệt, có lẽ vì tính chất mơ hồ của hiện tượng. Thử đan cử một số từ ngữ của một số ngôn ngữ quen thuộc của người Việt Nam trong thời gian gần đây. Người Pháp gọi là “dedoublement”, người Mỹ gọi là “The soul, astral body, person spirit”. Họ còn gọi chung một từ ngữ là “apparition”. Việt Nam gọi là: Hồn, Vía, Vong Linh. Để tiện dụng, xin đề nghị chúng ta thống nhất dùng từ “Hồn” trong bài viết này. Tuy nhiên không nên ngộ nhận từ ngữ và thực tế. Thực tế việc chúng ta gọi là Xuất Hồn, thì không phải là xuất cái Hồn mà là xuất cái Tôi. Trường phái Phật Giáo gọi là “pudgala”. Cái Hồn chỉ là một trong nhiều dạng thân xác của một cơ thể vật lý. Nói một cách khác, cái Hồn mà không có cái Tôi, thì nó chỉ là một thây ma vô dụng. Vì thế nếu chỉ Xuất Hồn (astral projection), thì đó là một việc làm vô nghĩa, cái Hồn trở thành một thứ zombie tẻ nhạt, chán ngắt! Việc này chúng ta sẽ trở lại khi tiếp cận với chuyên đề.
Có lẽ vì không giải quyết được ẩn số này, hay nói một cách khác, những người thực hiện việc Xuất Hồn (practitionner), cũng như khoa học gia hiện đại; nếu căn cứ vào các tài liệu được đăng tải trên các phương tiện truyền thông, thì rõ ràng người ta không tìm được đáp án cho bài toán Xuất Hồn. Cả người tập luyện lẫn khoa học gia đều cho là có một cái Hồn đi ra khỏi cơ thể vật lý. Cái Hồn này thậm chí đi đến tận sao Mộc (Jupiter) để quan sát. Người ta đã tranh luận về độ chính xác của việc quan sát này. Khoa học gia thì cho rằng mức độ chính xác chỉ khoảng 37%. Kết quả này không thuyết phục và không gây ấn tượng.
Thông tin của cuốn Tạp Thư thì cho biết, cái Hồn (kể cả cộng chung với cái Tôi) khi Xuất ra, thì tuyệt đối không có khả năng, cũng như không có những giác quan tương thích, để quan sát thế giới vật chất tự nhiên của con người. Nói tóm lại, người ta tranh luận một việc không có thật.
- Tam Tiểu Thư: Nếu tôi nhớ không lầm, thì ông từng nói có rất nhiều trường phái dạy cách Xuất Hồn, đúng không ông? Theo cơ chế thị trường, khi ông tiếp thị một sản phẩm, thì chí ít ông cũng phải giới thiệu về nguồn gốc, tính năng, giá cả … chính sách hậu mãi nữa chứ. Như thế người tiêu dùng tùy vào sức lực, nhất là khả năng kinh tế để chọn lựa cái gì phù hợp cho mình. Thời buổi này, kể cả kỹ thuật Xuất Hồn, cũng phải cảnh giác với hàng kém chất lượng, tai hại hơn nữa là hàng nhái, hàng dỏm!
Để tôi trình bày cho cô nghe một vài trường phái Xuất Hồn; nhưng không ai dám bảo đảm là những trường phái được trình bày sau đây thực sự làm người ta Xuất được Hồn.
Trước nhất xin trình bày trường phái của người Pháp đã có hơn trăm năm nay. Đây là sản phẩm “frabrique en france” dựa trên cơ sở khoa học thực nghiệm. Tác giả cho biết, khi Xuất Hồn ra khỏi thân xác vât lý, Hồn có thể để lại vân tay, dấu tay trên bột mì, trần nhà. Sau này khi trình bày kỹ thuật tập luyện, chính quý độc giả có thể tự đánh giá là việc này có hay không. Thật vậy, nếu có thể để lại được dấu vân tay thì quá thuyết phục, nhưng vấn đề là có để lại được vân tay hay không?
Sản phẩm tiếp theo có nguồn gốc từ Anh Quốc; “Made in England”; bây giờ là sản phẩm của Hoa Kỳ. Quý vị có thể tìm trên những trang web những bài viết, những bước để tập luyện, những video clip của rất nhiều tác giả thực hiện luyện tập; nhưng những người phản biện cũng đông đảo không kém. Có quá nhiều từ ngữ để phản biện: Tưởng tượng, nằm mơ, mất trí, “out of mind”. Nhẹ hơn thì: không thuyết phục, không gây ấn tượng. Chúng ta sẽ tiếp tục đề cập tới trong những phần sau.
- Tam Tiểu Thư: Thôi đi ông Tổng Quản ơi, ông có vẻ “sính ngoại” quá đi. Mình người Việt thì xài hàng Việt đi ông. Chả lẽ Việt Nam không ai Xuất Hồn được? Hơn nữa, theo ý tôi thì cơ thể các sắc dân về di truyền là khác nhau. Biết đâu phương pháp Xuất Hồn dành cho dân Tây thì đối người Việt nó lại không hiệu quả?
- Ông Tổng Quản: Cuối cùng tôi sẽ nói về một sản phẩm có nguồn gốc khá khiêm tốn và mang tiếng là tiêu cực. Không nói chắc quý vị cũng biết ngay đây là sản phẩm “made in Viet Nam”. Sản phẩm có ưu điểm duy nhất mà chắc chắn quý vị sẽ hưởng được khi sử dụng nó, là không sợ đụng hàng. Hy vọng những quý vị là người Việt Nam sẽ ủng hộ hàng nội địa. Biết đâu “phát minh thường của người ngoại đạo”.
Trước khi trình bày, chúng ta cũng nên quan tâm tới những quan điểm phản biện, mà người ta gọi là hiểu và giải thích một cách bi quan (skeptical interpretation). Không phải người ta chỉ hoài nghi về vấn đề Xuất Hồn mà còn về rất nhiều vấn đề khác nữa. Có người cho việc Xuất Hồn; nói nghe có vẻ Việt Nam; là nhảm nhí, là chuyện vặt vãnh, là giai thoại (anecdotal). Họ sẽ tin và không còn gì để bàn cãi chỉ khi nào bắt được một cái Hồn do ai đó Xuất ra, hay bắt được một con Ma đang lang thang không nơi cư trú. Việc này có lẽ chúng ta không bao giờ có thể thực hiện được vì những lý do sau:
- Luận lý hình thức bảo thủ của chúng ta là trở ngại để xây dựng lý thuyết.
- Máy móc của chúng ta không có những bộ phận cảm ứng tương thích.
- Nền khoa học duy vật là một vỏ bọc đã để lộ những giới hạn của nó.
Có thể vì những lý do nêu trên, nên khi đứng trước những hiện tượng vượt qua những giới hạn hiểu biết của khoa học, người ta mới phát biểu: “because there is no evidence that the soul exists”, “không có bằng chứng là có hồn”.
Sự thật thì bằng chứng khoa học là cái gì? Khoa học, bắt nguồn từ chữ La-Tinh có nghĩa là hiểu biết. Tất nhiên có nhiều hệ thống hiểu biết. Lịch sử cho biết nếu chủ quan chỉ cho hệ thống của mình là đúng, hệ thống hiểu biết khác là không đúng, thì con người biến thành con vật thử nghiệm đáng thương của một loại chủ thuyết cực đoan. Người ta đã nhân danh một hệ thống nào đó, rồi đưa thiên tài Bruno lên giàn hỏa, giam Copernicus trong một tháp chuông! Chỉ vì một hệ thống tư duy không đúng đã tiêu tốn của nhân loại bốn, năm chục triệu người. Khổ nỗi lịch sử lại có vẻ như chu kỳ chứ không phải là trục hệ. Cái gì không phù hợp với kiểu khoa học của mình thì gọi là giả, mơ, tưởng tượng (pseudo science, dream state, imagining).
Nếu đặt giả thuyết Chết không phải là hết, mà chỉ là thay đổi trạng thái hiện hữu, thay đổi môi trường hiện hữu; thì những vị khoa học gia từng tuyên bố như trên, có lẽ sẽ thấy mình hụt hẫng!
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Mình tuy sinh hoạt nơi rừng rú nông thôn, nhưng tôi cũng có nhận xét là chủ nghĩa cực đoan dường như đồng nghĩa với chủ nghĩa phiêu lưu. Tôi thấy Tây, Tàu, và cả Ấn Độ nữa, họ hay đề cập tới chủ thuyết Trung Dung, âm dương hòa hợp. Ông thấy đấy, trong bộ môn Châm Cứu, thực tế cũng cho biết là muốn đưa đến tình trạng ổn định, quân bình, thì khi châm huyệt âm cũng thời châm một huyệt dương.
- Ông Tổng Quản: Các bộ môn khoa học thường có nhận xét ở mức độ tư tưởng khá giống nhau, thí dụ như: “không có gì tự nhiên mà có, không có gì tự nhiên mà mất”. Bộ môn khác thì cho biết “không thể tạo ra năng lượng, không thể làm mất đi năng lượng”. Hình như phát biểu này đến bây giờ cũng không bị vi phạm. Có lẽ ai cũng biết không thể có cái máy vĩnh cửu. Cũng chính vì lý do này mà xe hơi chạy điện không được đón chào, xe tạp chủng (hybrid) vẫn là giải pháp tình thế. Điều này cho thấy khái niệm của nhiệt động lực học đã chi phối một cách triệt để. Rõ ràng là năng lượng không thể tự nhiên mà có. Ở thế giới Vi Mô (microcosm) cũng như Vĩ Mô (macrocrosm), chúng ta không thể tìm ra một cái gì đó ở trạng thái không vận động, không thể tìm ra một cái gì đó chỉ có một tính chất. Cứ cho là chủ nghĩa Duy Vật có một giá trị tuyệt đối, thì con người Duy Vật chúng ta cũng phải nằm trong hệ thống Duy Vật nói chung. Hai tính chất mà con người phải có là: Tính chất vận động và phải có nhiều tính chất không thể nào có một. Vấn đề thực sự chỉ còn là vấn đề của từ ngữ. Cụ thể là từ ngữ có thể Duy Tâm hoặc Duy Vật; nó lệ thuộc vào quan điểm của từng cá nhân hay xã hội. Tóm lại, Chết chỉ là sự thay đổi của trạng thái hiện hữu.
Kinh nghiệm dân gian trên khắp thế giới, dù ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thì những ngôn ngữ được biết tới, đều có sử dụng từ ngữ: MA. Chỉ cần hỏi một người bất kỳ về vấn đề liên quan tới Ma hoặc Vong Linh, Hồn, Vía … thì câu trả lời chắc chắn sẽ là: Tôi đã được nghe nói về vấn này hoặc chính tôi đã thấy Ma trực tiếp không qua trung gian ai cả. Có thể đưa ra một so sánh dân giả như sau: Trong thời thế chiến thứ 2 (1940-1945), do nhu cầu của chiến tranh, radar đã ra đời. Nó được mô tả là đôi mắt ma thuật (oeil magique), nhờ vậy mà Anh Quốc tránh được tổn thất do không lực của Đức (Royal Air Force), có đủ thời gian để truy cản. Nhưng bây giờ với kỹ thuật tàng hình (Stealth) của B1, B2, F22, F35 … radar khó mà phát hiện, nghĩa là thực tế sẽ không nhìn thấy. Thế nhưng đừng quên rằng máy bay của kẻ thù là một hiểm họa có thật. Nói cách khác, radar khó phát hiện không có nghĩa cuộc tấn công không lực là không có.
Việc báo mộng là một mô hình mang tính chất điển hình và phổ cập. Nó được các thực thể gọi là Ma, sử dụng rộng rãi. Có thể có nhiều quý độc giả từng là chứng nhân của hiện tượng này. Bất cứ ai cũng có thể đọc những tài liệu phổ thông trên thế giới, kể là người Chết đã hiện về báo tin cho thân nhân là họ đã chết, trước khi thân nhân nhận được điện tín báo về cái chết của họ (vào giai đoạn này chưa có cell phone, email … nên việc thông tin nhanh nhất là nhờ vào điện tín).
Còn tiếp ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu tâm!
Nội dung của lá thư từ Motcoidive như sau:
Kính thưa nhóm CTR cùng các bạn,
Tôi đang theo dõi loạt bài viết có nội dung rất “lạ” về "Trận Chiến Cuối Cùng giữa Con Người và Thần Chết" của CTR. Khi xem tới câu định nghĩa về xuất hồn của cuốn Tạp Thư: “Xuất Hồn: là cái Hồn và cái Tôi cùng ra đi một lúc, đến đâu đó, bỏ lại thân xác vật lý. Định nghĩa này có lẽ có một không hai, nhưng nó giúp chúng ta một cách tích cực trong thao tác Xuất Hồn”, tôi thật sự kinh ngạc.
Tôi là một người yêu thích Thiền Định và cũng ý thức được tầm quan trọng của việc ra đi vào phút giây cuối cùng. Tôi cũng từng theo đuổi việc luyện tập xuất hồn nhiều năm nhưng vẫn chưa thành công. Theo sự hiểu biết của tôi thì:
ẤN CHỨNG XUẤT HỒN RA KHỎI XÁC là khi Thần Thức và Thể Xác của con người được tồn tại ở hai nơi khác nhau; Tiếng Anh gọi là Out of Body Experience hay viết tắt là OBE .
Không ai biết thật rõ ràng OBE là gì. Những người đã từng có ấn chứng về OBE nói rằng họ Thấy rõ ràng là họ đã đi ra khỏi thân xác; trong lúc đó, họ có thể lảng vảng gần thân xác hoặc nhìn thân xác từ trên cao, họ có thể bay ra khỏi nóc nhà để đi thăm thân quyến của họ ở một nơi xa xôi nào đó và họ có thể đi ngang qua địa cầu một cách dễ dàng.
Câu hỏi của tôi là khi người ta Thấy mình đi ra khỏi thân xác, thì rõ ràng là cái tôi nó vẫn còn ở lại thân xác nên nó mới thấy cái hồn đi ra.
Cuốn Tạp Thư thì lại cho rằng khi xuất hồn, thì cái Tôi và cái Hồn phải đi ra cùng một lúc. Như vậy thì mình không thể thấy mình xuất hồn ra khỏi cơ thể mình được, vì khi cái Tôi ra đi cùng với cái Hồn, thì cái gì còn lại để mà Thấy được Hồn đang xuất ra?
Quan niệm về xuất hồn của CTR đã làm đảo lộn tất cả những hiểu biết của cá nhân tôi (và có thể là rất nhiều độc giả khác nữa) về chuyện này. Tôi đã tập luyện rất lâu nhưng vẫn chưa xuất hồn được. Có khi nào do hiểu biết của tôi về kỹ thuật xuất hồn đã bị sai từ cơ bản nên tập luyện không có kết quả chăng?
Vài dòng mạo muội với thật tâm muốn hiểu được kỹ thuật này. Mong CTR hoan hỷ chia sẻ.
Kính chúc Tổng Quản, Tam Tiểu Thư cùng quý độc giả thân tâm an lạc.
Motcoidive
Kính thưa nhóm CTR cùng các bạn,
Tôi đang theo dõi loạt bài viết có nội dung rất “lạ” về "Trận Chiến Cuối Cùng giữa Con Người và Thần Chết" của CTR. Khi xem tới câu định nghĩa về xuất hồn của cuốn Tạp Thư: “Xuất Hồn: là cái Hồn và cái Tôi cùng ra đi một lúc, đến đâu đó, bỏ lại thân xác vật lý. Định nghĩa này có lẽ có một không hai, nhưng nó giúp chúng ta một cách tích cực trong thao tác Xuất Hồn”, tôi thật sự kinh ngạc.
Tôi là một người yêu thích Thiền Định và cũng ý thức được tầm quan trọng của việc ra đi vào phút giây cuối cùng. Tôi cũng từng theo đuổi việc luyện tập xuất hồn nhiều năm nhưng vẫn chưa thành công. Theo sự hiểu biết của tôi thì:
ẤN CHỨNG XUẤT HỒN RA KHỎI XÁC là khi Thần Thức và Thể Xác của con người được tồn tại ở hai nơi khác nhau; Tiếng Anh gọi là Out of Body Experience hay viết tắt là OBE .
Không ai biết thật rõ ràng OBE là gì. Những người đã từng có ấn chứng về OBE nói rằng họ Thấy rõ ràng là họ đã đi ra khỏi thân xác; trong lúc đó, họ có thể lảng vảng gần thân xác hoặc nhìn thân xác từ trên cao, họ có thể bay ra khỏi nóc nhà để đi thăm thân quyến của họ ở một nơi xa xôi nào đó và họ có thể đi ngang qua địa cầu một cách dễ dàng.
Câu hỏi của tôi là khi người ta Thấy mình đi ra khỏi thân xác, thì rõ ràng là cái tôi nó vẫn còn ở lại thân xác nên nó mới thấy cái hồn đi ra.
Cuốn Tạp Thư thì lại cho rằng khi xuất hồn, thì cái Tôi và cái Hồn phải đi ra cùng một lúc. Như vậy thì mình không thể thấy mình xuất hồn ra khỏi cơ thể mình được, vì khi cái Tôi ra đi cùng với cái Hồn, thì cái gì còn lại để mà Thấy được Hồn đang xuất ra?
Quan niệm về xuất hồn của CTR đã làm đảo lộn tất cả những hiểu biết của cá nhân tôi (và có thể là rất nhiều độc giả khác nữa) về chuyện này. Tôi đã tập luyện rất lâu nhưng vẫn chưa xuất hồn được. Có khi nào do hiểu biết của tôi về kỹ thuật xuất hồn đã bị sai từ cơ bản nên tập luyện không có kết quả chăng?
Vài dòng mạo muội với thật tâm muốn hiểu được kỹ thuật này. Mong CTR hoan hỷ chia sẻ.
Kính chúc Tổng Quản, Tam Tiểu Thư cùng quý độc giả thân tâm an lạc.
Motcoidive
Tập 36: Trận Chiến Cuối Cùng Armageddon giữa Con Người và Thần Chết (Phần 3)
Tự đào luyện kỹ năng Xuất Hồn (sic) là tiền đề cho việc bỏ xác mai sau
- Tam Tiểu Thư: Qua nhiều buổi nói chuyện với ông, tôi vỡ lẽ ra một điều, Xuất Hồn không phải là phép tắc đáng sợ của các Pháp Sư, không là trò chơi vô bổ, không phải sản phẩm của chứng hoang tưởng hoặc nhằm khêu gợi tâm lý tò mò và hiếu kỳ của con người. Xuất Hồn thật sự là tiên đề, là kinh nghiệm thực tế bản thân chuẩn bị cho việc bỏ xác mai sau trong trạng thái sáng suốt an toàn khi mình đã hết vòng đời. Việc tập luyện có vẻ cũng chẳng đòi hỏi những phương tiện cầu kỳ phức tạp, đắt tiền, đúng không ông? Tôi hy vọng nó nằm trong tầm tay của hầu hết mọi người, nhưng vấn đề là mình có cơ may biết được tới nó hay không thôi. Tiếp theo đó là mình cần có đủ kiến thức và kiên nhẫn để biến thành hiện thực.
Tôi còn một thắc mắc khác nữa (mà tôi nghĩ quí độc giả cũng vậy), là không biết việc Xuất Hồn có phải là một hiện tượng có thật hay không? Thật sự tôi có thấy ai Xuất Hồn được bao giờ đâu? Theo ông thì có một lý thuyết nào để phỏng đoán việc Xuất Hồn là một khả năng có thể xảy ra trên thực tế, và phù hợp với logic của thế giới tự nhiên không? Ít ra thì ông cũng phải nói là căn cứ vào đâu mà ông cho là người ta có khả năng Xuất Hồn chứ? Ông nói mơ mơ hồ hồ thì tôi không tập theo ông đâu; vì nếu tập mãi mà không Xuất Hồn được thì ai chịu trách nhiệm “bồi thường thiệt hại” cho tôi chứ?
Ông Tổng Quản à, nếu mình cứ bàn luận mãi về đề tài Thần Chết, Xuất Hồn … mà chẳng ai làm được, thì e là blog này sẽ ế khách và phá sản. Độc giả sẽ nghĩ CTR là tái sinh của tác giả bản nhạc GLOOMY SUNDAY vào thế kỷ 21.
- Ông Tổng Quản: Cô cũng có lý đó, nhưng tôi lại cho là đến tận hôm nay, quí độc giả còn theo dõi những bài viết này là những vị có tinh thần nghiêm túc, quan trọng hơn nữa là có tinh thần trách nhiệm với chính bản thân của mình.
Ai cũng biết chết là có thật. Nó không thể tránh được và cũng không thể đảo ngược được. Những người thuộc trường phái hiện sinh đã phản ứng và cho cái chết là phi lý (la mort est absurde). Cái chết đối với Phân Tâm Học của trường phái Freud thì được trình bày với khái niệm Nhị Nguyên (conception dualiste). Đó là hai bản năng: bản năng tình dục và bản năng chết (instinct de mort) cùng tan biến vào nhau, trộn lẫn, kết hợp với nhau. Hai bản năng này là nền móng tiềm ẩn của tâm lý con người. Nếu chúng ta công nhận giả thuyết này, thì sẽ đưa đến một hệ quả là công nhận sự hiện hữu của các chất liệu sống (substance vivante) có khuynh hướng bảo thủ, thụt lùi; nghĩa là sẽ đi dần về cái chết. Người ta có thể nói rằng mục đích của tất cả các sự sống là cái chết. Cuối cùng có thể phát biểu một định đề: “Tất cả chất liệu được mang sự sống, có khuynh hướng trở lại trạng thái vô cơ ban đầu”. Tư tưởng này dường như tương thích với phát biểu của Thánh Kinh Cơ Đốc Giáo. Tuy nhiên, khái niệm này đặt chúng ta ở một trạng thái lưỡng nan (dilemme); vì nếu phát biểu trên là đúng thì chúng ta không giải thích được sự sanh sản của tế bào vì đó là bằng chứng về sự bất tử của các chủng loại. Chúng ta cũng không giải thích được bản năng tình dục.
Nhờ phương tiện truyền thông đại chúng phổ cập, người ta tiếp cận được với nhiều đề tài với nguồn thông tin đa dạng: Cận tử, ma, báo mộng ... Người tu Thiền Định ở bất cứ trường phái nào, cũng gặp những Vong Linh của những người đã chết. Người chết này có thể là thân quen hoặc xa lạ. Họ thường nhờ vả chuyển tải những thông tin cần thiết đến thân nhân, những tồn tại mà họ cần được giải quyết.
- Tam Tiểu Thư: À! Chuyện đó tôi cũng thường nghe người ta kể. Những nhà làm phim, nhà văn ... cũng hay viết truyện kinh dị đề cập đến các hồn ma về báo mộng này kia. Cá nhân tôi thì nghĩ những chuyện này 100% là tưởng tượng hư cấu. Hôm nay ông nói người tu Thiền Định hay gặp Vong Linh. Vậy tôi hỏi ông là tại sao người bình thường như tôi thì chả bao giờ gặp, mà người tu Thiền thì lại gặp được?
- Ông Tổng Quản: Việc này có thể lý giải khá đơn giản. Người tu Thiền Định giống như người có cell phone mà thân nhân của họ không có. Kỹ thuật Thiền Định chính là cái cell phone này. Ai cũng biết, các Vong Linh thường hiện về báo mộng cho thân nhân của mình trong lúc nửa tỉnh nửa mê. Do đó ngủ có thể được coi là một trạng thái Thiền thụ động. Ghost lab của kênh truyền hình Discovery tốn bao nhiêu công của, thời gian, nhân lực cũng chẳng có bằng chứng cụ thể nào đủ để thuyết phục sự hiện hữu của Ma. Có lẽ vật chất của thế giới Ma không tương thích với máy móc của thế giới con người. Tài liệu Tôn Giáo cho biết cái mà chúng ta gọi là nước, thì đối với thế giới khác là máu. Con người ăn cơm trên bàn, thì thế giới khác ăn thực phẩm vung vãi dưới đất. Cấu tạo Sắc (rupa) hay vật chất của Ma dường như khác hẳn con người. Khác cả về tổ chức Sắc. Hình như họ không bị lực tương tác hấp dẫn tác động. Kinh nghiệm dân gian cho biết họ (Ma) lướt đi trên mặt đất. Thế nhưng về cấu tạo Tâm, thì lại mang tính chất nhân bản. Ma Á Châu hay nhát người, điều này chứng tỏ một điều là Ma có cấu tạo tâm gần gũi với con người. Không chỉ thế, điều này còn cho thấy Ma chắc chắn phải có một dạng tế bào thần kinh gương, vì Ma dự đoán được là con người sẽ sợ khi bị nhát.
Nếu chúng ta coi Vi Diệu Pháp như một chủ thuyết, thì có lẽ đây là chủ thuyết duy nhất ngày hôm nay nhân loại có được, khả dĩ có thể giải thích các hiện tượng mà người ta gọi là: Vong Linh, Ma, người quá cố …
Xin phép được nhắc lại một lần nữa, có một tác giả của một tài liệu Cận Tử, được khắp thế giới biết đến nói rằng nếu chết là hết thì chẳng có gì đáng để nói cả, nhưng nếu ngược lại thì chúng ta sẽ thiệt thòi, vì chúng ta chẳng có sự chuẩn bị nào cả cho chính mình. Ai cũng biết đi chơi xa, lâu ngày, nếu chẳng có sự chuẩn bị nào cả, thì cuộc đi chơi đầy hứng thú sẽ biến thành thảm họa!
Sinh vật từ đơn bào (unicellular) đến đa bào (multicellular), nói theo kiểu Tôn Giáo thì có sanh ắt có diệt. Cát bụi tất nhiên phải trở về với cát bụi. Chính yếu tố “Đất” đã cho nó một hình thể (form) chỉ có tính chất tình thế tạm thời. Tôn Giáo khác thì có câu nói lừng danh: “cái gì của Caesar thì trả lại cho Caesar, cái gì của Thượng Đế trả lại cho Thượng Đế”. Trong tác phẩm “Nước Chúa”, một vị Thánh đã phát biểu rõ hơn nữa: “Đất nước tôi không phải ở thế gian này, mà thật ra là cuộc sống vĩnh hằng ở bên kia thế giới”.
Không ai muốn mình là người ngớ ngẩn. Do đó “thức thời chính là tuấn kiệt”; chúng ta nên chọn cho mình một cái chết khôn ngoan và có lợi nhất nếu có thể.
Bỏ qua những cái chết đột ngột, không bình thường. Chúng ta hãy hình dung một cái chết điển hình. Khi đường biểu diễn của các máy móc đo điện tim chỉ còn là đường thẳng song song với trục hoành, thì các bác sĩ không còn việc gì để làm nữa. Tất cả mọi thứ đối với chúng ta sẽ trở thành quá khứ. Giờ này chỉ còn mình ta đứng dưới mưa, người bạn không hẹn đã đến. Cơ đồ to lớn như Saddam, Gadaffi … lúc chết cũng chỉ có một mình! Chúng ta chỉ còn lại người bạn là nỗi cô đơn, lẻ loi, kinh hoàng, bối rối. Muốn trở lại thân xác vật lý, thì không thể thực hiện được, vì nó đã hư hỏng. Chúng ta chẳng có sự lựa chọn nào khác là đành “nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu”! Cá nhân chúng ta, ngay cả đối với thân nhân thân thiết nhất, cũng sẽ chìm dần vào quên lãng. Tất cả chỉ còn là một kỷ niệm mơ hồ của quá khứ. Dù đó là Osama hay Obama … cũng đều bình đẳng trước Thần Chết, cũng như trước Thượng Đế.
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Ông nói như là ông đã từng trải qua cái chết rồi vậy. Ông diễn tả phút giây từ giã cõi đời rất sống động và có vẻ rất thật nữa. Nhưng trên thực tế thì tôi nghĩ là kể cả ông và tôi đã chết hay Cận Tử bao giờ đâu mà biết lúc chết ra sao. Chẳng qua chỉ là mình đoán mò. Theo tôi thì mình không nên tự dọa mình để làm cho mình sợ. Ông có thái độ tích cực một chút đi. Tốt nhất là ông xem trong cuốn tạp thư có đưa ra kỹ thuật Xuất Hồn nào thực tế, cụ thể, đại chúng, rẻ tiền để con người có cơ hội đào thoát ra khỏi vương quốc của Thần Chết, tự mình dành lấy tự do.
- Ông Tổng Quản: Chắc chắn chúng ta không tìm được định nghĩa từ ngữ Xuất Hồn là cái gì trong tự điển của bất cứ ngôn ngữ nào. Cuốn Tạp Thư lại đưa ra giả thuyết về từ ngữ Xuất Hồn như sau: “Xuất Hồn: là cái Hồn và cái Tôi cùng ra đi một lúc, đến đâu đó, bỏ lại thân xác vật lý”. Định nghĩa này có lẽ có một không hai, nhưng nó giúp chúng ta một cách tích cực trong thao tác Xuất Hồn.
Thật ra ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về việc Xuất Hồn cũng như về cái chết; chỉ tại chúng ta không biết mà thôi. Chúng ta cũng chẳng tìm ra ai có kinh nghiệm để chỉ bảo về vấn đề này. Cuốn Tạp Thư có liệt kê một số hiệu ứng, tuy bề ngoài khác nhau, nhưng bản chất có thể nói là một.
A. Có lẽ hầu hết mọi người bình thường có giới tính rõ ràng thì vào một giai đoạn nào đó trong đời của mình, đã hoặc sẽ yêu ai đó với cường độ cao. Khi đường biểu diễn tình cảm ở giai đoạn đỉnh điểm, sẽ có một lúc nào đó, khi họ đang ở đâu đó, làm gì đó, nhưng thật sự họ mất hết ý thức về không gian thời gian hiện tại. Họ đang ở cạnh người mình yêu … Thế rồi, khi có ai đó gọi họ, họ giật mình như ở đâu mới về, sau đó từ từ ý thức lại hiện trạng thực tế. Theo quan điểm của Cuốn Tạp Thư, thì đây là một trường hợp Xuất Hồn ngẫu nhiên, Xuất Hồn hoàn hảo. Tại sao gọi là hoàn hảo? Gọi là hoàn hảo bởi lẽ, cái Tôi và Hồn cùng ra đi một lúc, cùng đến một nơi. Cơ thể vật lý hoàn toàn bị tách ra khỏi Hồn và cái Tôi. Thật vậy, ở trong trường hợp này, Hồn và cái Tôi đã có một sự kết hợp chặt chẽ, như là tan biến vào nhau, lệ thuộc vào nhau, tạo thành một thực thể nhất quán. Người có ý định tập Xuất Hồn, rất nên chú ý tới mô hình chuẩn, mà chính bản thân họ đã từng trải nghiệm.
B. Ai nằm ngủ cũng phải mơ, thậm chí đến thú vật cũng nằm mơ thì phải (bỏ qua khía cạnh giấc mơ được nhìn theo chiều hướng Phân Tâm Học). Ai cũng có những giấc mơ dài, rõ ràng như thật, nhiều tình tiết, diễn tiến phức tạp. Việc đó xảy ra ở một địa điểm cách xa cái giường chúng ta đang ngủ. Hồn và cái Tôi đã phản ứng một cách rất tự nhiên, độc lập một mình, không cần sự can thiệp của thân xác vật lý. Thật vậy, thân xác vật lý đang nằm ngủ, bất động trên cái giường, chẳng giúp gì được cho Hồn và cái Tôi. Chắc chắn ai cũng có thể nhớ, trong những giấc mơ mà mình từng trải qua, mình cần sự can thiệp của các cử động thuộc thân xác vật lý vì trong giấc mơ có thể xảy ra xô xát, chạy nhảy … Do không có thân xác vật lý, nên Hồn và cái Tôi rất lúng túng, không thực hiện ý định của mình được. Điều này nếu quý vị nhớ lại thì sẽ thấy tính chất đặc trưng của Xuất Hồn, là Hồn và cái Tôi tan biến vào nhau tạo thành một Thực Thể nhất quán, hoàn toàn vắng bóng cơ thể vật lý. Đây cũng là một trường hợp Xuất Hồn mà ngẫu nhiên con người thực hiện được, nhưng không hiểu rõ tiến trình này là cái gì.
Theo huyền sử của trường phái Phật Giáo, thì như quý vị đã biết, khi cơ thể vật lý của Ngài Sakya Muni bị hư hỏng do độc tố của nấm, Ngài đã sử dụng kỹ thuật Thiền Định để bỏ lại cái xác vật lý. Kỹ thuật Thiền Định rất phổ biến lúc bấy giờ, người ta gọi là hậu Upanisad. Raja Yoga là một trong 6 trường phái lúc bấy giờ. Theo tài liệu của trường phái này thì họ rất chú trọng đến kỹ thuật Samyama. Kỹ thuật này gồm 3 giai đoạn: Dharana, Dhyana, Samadhi … Với kỹ thuật này người ta có thể ứng dụng vào rất nhiều công việc. Trong chương Thần Lực, dường như người ta cũng sử dụng kỹ thuật này để Xuất Hồn.
Ngày nay, vào kỷ nguyên chúng ta đang sống, lại có những hiện tượng trái ngược với thời kỳ hậu Upanisad. Một trường phái với hàng tỷ tín đồ trên thế giới, có một tài liệu chuyên ngành gọi là Thần Học, được biên soạn công phu để dùng làm giáo trình để giảng dạy cho những vị sau này sẽ là cán bộ khung của trường phái nói trên. Thiền Định đã được du nhập chính thức vào trường phái này qua tài liệu nói trên. Nội dung cũng như hình thức văn chương nói lên tính chất vô cùng hàn lâm, kinh viện và uyên bác, tinh vi đến từng chi tiết. Nói tóm lại không thể chê vào đâu được! Tuy nhiên, dưới con mắt của một người tu Thiền Định chuyên nghiệp, thực chứng, thì sẽ nhận ra tác giả của tài liệu này chỉ làm công việc sưu tầm tài liệu, nhưng thực tế không có kinh nghiệm về Thiền Định. Giảng dạy những điều chính mình chưa từng trải qua là phước hay là họa?
Về mặt tài liệu, có rất nhiều nhà Yogi ở Ấn Độ đã kể về các vị Chân Sư. Có những vị Chân Sư sau khi nói lời chia tay với những người quen biết, họ Nhập Định bỏ lại thân xác thế gian một cách bình thản.
Ở Việt Nam cách đây một vài thập kỷ, các chuyên gia Liên Xô có đến khảo cứu về nhục thể của hai vị Sư ở miền Bắc. Thân xác hai vị Thiền Sư này lúc đó vẫn tồn tại và ở trong tư thế Thiền Định, dù phương tiện bảo quản thô sơ thủ công. Các chuyên gia Liên Xô có viết một bài báo với nhan đề: “Nụ cười an lạc”.
Nói tóm lại, dường như kỹ thuật Thiền Định thực sự là một công cụ hữu hiệu. Nếu biết sử dụng công cụ này, con người có thể bỏ lại thân xác thế gian và ra đi một cách bình thản, an lạc.
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à, tôi có một thắc mắc. Ngày hôm nay trên thực tế, tôi thấy những vị nổi danh là đạo cao đức trọng, chẳng có ai sử dụng kỹ thuật Nhập Định để bỏ lại thân xác thế gian. Tôi có một chị bạn làm bác sĩ ở một bệnh viện lớn, kể cho tôi nghe chuyện này. Có một vị là đứng đầu ở một trường phái lớn ở Việt Nam, rất nổi danh, phải nhập viện vì nhồi máu cơ tim (Angine De Poitrine). Phút giây đối diện với bệnh tật, dường như ông quá sợ chết. Nỗi sợ này còn lớn hơn cả một người bình thường. Các bác sĩ chăm sóc nói đùa với nhau, chắc vị đó tiếc chiếc áo long bào (ám chỉ thân xác vật chất).
Câu chuyện này làm cho tôi hết sức hoang mang, mà phải nói đúng hơn làm cho cô bạn bác sĩ và tôi thất vọng. Những vị đạo cao như núi Thái Sơn, phước như Đông Hải mà còn như vậy, thì huống chi là mình, một Tam Tiểu Thư tầm thường, vô danh tiểu tốt … Với kinh nghiệm của một người làm nghề bảo tiêu, cuộc sống được thử thách trên đầu dao mũi kiếm, tôi có hai suy nghĩ, xin lỗi chẳng biết đúng hay sai, rất mong được quý độc giả hào phóng chỉ bảo.
* Một là, kỹ thuật Thiền Định chỉ là hữu danh vô thực, không thực sự có thực lực, chỉ là hư danh.
* Hai là, kỹ thuật Thiền Định là có thật, nhưng nói hơi duy tâm một tý, chẳng qua chỉ tại mình “phước mỏng, nghiệp dày“, nên gặp phải kỹ thuật Thiền Định thuộc về dạng hàng nhái, hàng dỏm … chưa có giấy kiểm định. Chẳng qua chỉ tại mình ham dễ, ham rẻ nên gặp phải loại Thiền Định … kém chất lượng.
- Ông Tổng Quản: Câu trả lời thật ra không phải là quá khó nếu chúng ta nhìn lại lịch sử phát triển của trường phái Phật Giáo tại Việt Nam. Nếu tôi không lầm thì nhóm CTR đã nhiều lần trình bày về vấn đề này nhằm phục vụ quý độc giả. Chúng ta có thể tóm lược ngắn gọn như sau: Hầu hết các cơ sở Tôn Giáo của trường phái Phật Giáo của Việt Nam ngày hôm nay, đều mang nặng màu sắc đặc thù của Trung Quốc. Các tài liệu của Trung Quốc có một lối trình bày rất Trung Quốc. Cái gì cũng nói hàng hai, mơ mơ, hồ hồ. Thí dụ “Sắc là Không, Không là Sắc”. Những đối thoại trong phim ảnh của Trung Quốc ngày hôm nay cũng chẳng khác xưa là bao. Chẳng hạn, một cô gái hỏi người yêu là “anh có yêu tôi không?” Câu trả lời: “yêu thì sao, không yêu thì sao?” Kiểu trả lời này có lẽ chỉ có ở người Trung Quốc. Tuệ Viễn là người Trung Quốc 100%. Ông chính là Kiến Trúc Sư, tác giả của trường phái Tịnh Độ quá phổ biến ở Việt Nam. Bốn cuốn kinh cơ bản của trường phái Tịnh Độ là do người Trung Quốc sáng tác. “Địa danh Tịnh Thổ”, dân gian Việt Nam gọi là cõi A Di đà là một tác phẩm thuần túy của Trung Quốc. Điều này có lẽ không còn gì để xét lại. Có một trường phái Thiền Định của Trung Quốc cũng rất phổ biến ở Việt Nam với phát biểu quá hấp dẫn: “Tiền niệm mê tức phàm, hậu niệm ngộ tức Phật” “Phút trước là con người bình thường, (nếu ngộ, là hiểu được sự thật) phút sau thành Phật”.
Tư tưởng này, cách tu Thiền Định này không thể tìm thấy trong những tài liệu khi Sakya Muni còn tại thế. Ai cũng biết bản thân của Sakya Muni, cũng phải học Thiền Định với các vị thầy lúc bất giờ. Ngài Thiền Định dưới cây Bồ Đề, Thiền Định suốt cả đời mình trong mấy chục năm và … Thiền Định trước khi bỏ xác thế gian. Nếu so sánh với cách tập luyện của Sakya Muni, thì lối Thiền Định của người Trung Quốc được phổ biến ở Việt Nam, có thể mô tả là “Đại ngôn, lộng ngôn”!
(còn tiếp) ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu ý!
Tự đào luyện kỹ năng Xuất Hồn (sic) là tiền đề cho việc bỏ xác mai sau
- Tam Tiểu Thư: Qua nhiều buổi nói chuyện với ông, tôi vỡ lẽ ra một điều, Xuất Hồn không phải là phép tắc đáng sợ của các Pháp Sư, không là trò chơi vô bổ, không phải sản phẩm của chứng hoang tưởng hoặc nhằm khêu gợi tâm lý tò mò và hiếu kỳ của con người. Xuất Hồn thật sự là tiên đề, là kinh nghiệm thực tế bản thân chuẩn bị cho việc bỏ xác mai sau trong trạng thái sáng suốt an toàn khi mình đã hết vòng đời. Việc tập luyện có vẻ cũng chẳng đòi hỏi những phương tiện cầu kỳ phức tạp, đắt tiền, đúng không ông? Tôi hy vọng nó nằm trong tầm tay của hầu hết mọi người, nhưng vấn đề là mình có cơ may biết được tới nó hay không thôi. Tiếp theo đó là mình cần có đủ kiến thức và kiên nhẫn để biến thành hiện thực.
Tôi còn một thắc mắc khác nữa (mà tôi nghĩ quí độc giả cũng vậy), là không biết việc Xuất Hồn có phải là một hiện tượng có thật hay không? Thật sự tôi có thấy ai Xuất Hồn được bao giờ đâu? Theo ông thì có một lý thuyết nào để phỏng đoán việc Xuất Hồn là một khả năng có thể xảy ra trên thực tế, và phù hợp với logic của thế giới tự nhiên không? Ít ra thì ông cũng phải nói là căn cứ vào đâu mà ông cho là người ta có khả năng Xuất Hồn chứ? Ông nói mơ mơ hồ hồ thì tôi không tập theo ông đâu; vì nếu tập mãi mà không Xuất Hồn được thì ai chịu trách nhiệm “bồi thường thiệt hại” cho tôi chứ?
Ông Tổng Quản à, nếu mình cứ bàn luận mãi về đề tài Thần Chết, Xuất Hồn … mà chẳng ai làm được, thì e là blog này sẽ ế khách và phá sản. Độc giả sẽ nghĩ CTR là tái sinh của tác giả bản nhạc GLOOMY SUNDAY vào thế kỷ 21.
- Ông Tổng Quản: Cô cũng có lý đó, nhưng tôi lại cho là đến tận hôm nay, quí độc giả còn theo dõi những bài viết này là những vị có tinh thần nghiêm túc, quan trọng hơn nữa là có tinh thần trách nhiệm với chính bản thân của mình.
Ai cũng biết chết là có thật. Nó không thể tránh được và cũng không thể đảo ngược được. Những người thuộc trường phái hiện sinh đã phản ứng và cho cái chết là phi lý (la mort est absurde). Cái chết đối với Phân Tâm Học của trường phái Freud thì được trình bày với khái niệm Nhị Nguyên (conception dualiste). Đó là hai bản năng: bản năng tình dục và bản năng chết (instinct de mort) cùng tan biến vào nhau, trộn lẫn, kết hợp với nhau. Hai bản năng này là nền móng tiềm ẩn của tâm lý con người. Nếu chúng ta công nhận giả thuyết này, thì sẽ đưa đến một hệ quả là công nhận sự hiện hữu của các chất liệu sống (substance vivante) có khuynh hướng bảo thủ, thụt lùi; nghĩa là sẽ đi dần về cái chết. Người ta có thể nói rằng mục đích của tất cả các sự sống là cái chết. Cuối cùng có thể phát biểu một định đề: “Tất cả chất liệu được mang sự sống, có khuynh hướng trở lại trạng thái vô cơ ban đầu”. Tư tưởng này dường như tương thích với phát biểu của Thánh Kinh Cơ Đốc Giáo. Tuy nhiên, khái niệm này đặt chúng ta ở một trạng thái lưỡng nan (dilemme); vì nếu phát biểu trên là đúng thì chúng ta không giải thích được sự sanh sản của tế bào vì đó là bằng chứng về sự bất tử của các chủng loại. Chúng ta cũng không giải thích được bản năng tình dục.
Nhờ phương tiện truyền thông đại chúng phổ cập, người ta tiếp cận được với nhiều đề tài với nguồn thông tin đa dạng: Cận tử, ma, báo mộng ... Người tu Thiền Định ở bất cứ trường phái nào, cũng gặp những Vong Linh của những người đã chết. Người chết này có thể là thân quen hoặc xa lạ. Họ thường nhờ vả chuyển tải những thông tin cần thiết đến thân nhân, những tồn tại mà họ cần được giải quyết.
- Tam Tiểu Thư: À! Chuyện đó tôi cũng thường nghe người ta kể. Những nhà làm phim, nhà văn ... cũng hay viết truyện kinh dị đề cập đến các hồn ma về báo mộng này kia. Cá nhân tôi thì nghĩ những chuyện này 100% là tưởng tượng hư cấu. Hôm nay ông nói người tu Thiền Định hay gặp Vong Linh. Vậy tôi hỏi ông là tại sao người bình thường như tôi thì chả bao giờ gặp, mà người tu Thiền thì lại gặp được?
- Ông Tổng Quản: Việc này có thể lý giải khá đơn giản. Người tu Thiền Định giống như người có cell phone mà thân nhân của họ không có. Kỹ thuật Thiền Định chính là cái cell phone này. Ai cũng biết, các Vong Linh thường hiện về báo mộng cho thân nhân của mình trong lúc nửa tỉnh nửa mê. Do đó ngủ có thể được coi là một trạng thái Thiền thụ động. Ghost lab của kênh truyền hình Discovery tốn bao nhiêu công của, thời gian, nhân lực cũng chẳng có bằng chứng cụ thể nào đủ để thuyết phục sự hiện hữu của Ma. Có lẽ vật chất của thế giới Ma không tương thích với máy móc của thế giới con người. Tài liệu Tôn Giáo cho biết cái mà chúng ta gọi là nước, thì đối với thế giới khác là máu. Con người ăn cơm trên bàn, thì thế giới khác ăn thực phẩm vung vãi dưới đất. Cấu tạo Sắc (rupa) hay vật chất của Ma dường như khác hẳn con người. Khác cả về tổ chức Sắc. Hình như họ không bị lực tương tác hấp dẫn tác động. Kinh nghiệm dân gian cho biết họ (Ma) lướt đi trên mặt đất. Thế nhưng về cấu tạo Tâm, thì lại mang tính chất nhân bản. Ma Á Châu hay nhát người, điều này chứng tỏ một điều là Ma có cấu tạo tâm gần gũi với con người. Không chỉ thế, điều này còn cho thấy Ma chắc chắn phải có một dạng tế bào thần kinh gương, vì Ma dự đoán được là con người sẽ sợ khi bị nhát.
Nếu chúng ta coi Vi Diệu Pháp như một chủ thuyết, thì có lẽ đây là chủ thuyết duy nhất ngày hôm nay nhân loại có được, khả dĩ có thể giải thích các hiện tượng mà người ta gọi là: Vong Linh, Ma, người quá cố …
Xin phép được nhắc lại một lần nữa, có một tác giả của một tài liệu Cận Tử, được khắp thế giới biết đến nói rằng nếu chết là hết thì chẳng có gì đáng để nói cả, nhưng nếu ngược lại thì chúng ta sẽ thiệt thòi, vì chúng ta chẳng có sự chuẩn bị nào cả cho chính mình. Ai cũng biết đi chơi xa, lâu ngày, nếu chẳng có sự chuẩn bị nào cả, thì cuộc đi chơi đầy hứng thú sẽ biến thành thảm họa!
Sinh vật từ đơn bào (unicellular) đến đa bào (multicellular), nói theo kiểu Tôn Giáo thì có sanh ắt có diệt. Cát bụi tất nhiên phải trở về với cát bụi. Chính yếu tố “Đất” đã cho nó một hình thể (form) chỉ có tính chất tình thế tạm thời. Tôn Giáo khác thì có câu nói lừng danh: “cái gì của Caesar thì trả lại cho Caesar, cái gì của Thượng Đế trả lại cho Thượng Đế”. Trong tác phẩm “Nước Chúa”, một vị Thánh đã phát biểu rõ hơn nữa: “Đất nước tôi không phải ở thế gian này, mà thật ra là cuộc sống vĩnh hằng ở bên kia thế giới”.
Không ai muốn mình là người ngớ ngẩn. Do đó “thức thời chính là tuấn kiệt”; chúng ta nên chọn cho mình một cái chết khôn ngoan và có lợi nhất nếu có thể.
Bỏ qua những cái chết đột ngột, không bình thường. Chúng ta hãy hình dung một cái chết điển hình. Khi đường biểu diễn của các máy móc đo điện tim chỉ còn là đường thẳng song song với trục hoành, thì các bác sĩ không còn việc gì để làm nữa. Tất cả mọi thứ đối với chúng ta sẽ trở thành quá khứ. Giờ này chỉ còn mình ta đứng dưới mưa, người bạn không hẹn đã đến. Cơ đồ to lớn như Saddam, Gadaffi … lúc chết cũng chỉ có một mình! Chúng ta chỉ còn lại người bạn là nỗi cô đơn, lẻ loi, kinh hoàng, bối rối. Muốn trở lại thân xác vật lý, thì không thể thực hiện được, vì nó đã hư hỏng. Chúng ta chẳng có sự lựa chọn nào khác là đành “nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu”! Cá nhân chúng ta, ngay cả đối với thân nhân thân thiết nhất, cũng sẽ chìm dần vào quên lãng. Tất cả chỉ còn là một kỷ niệm mơ hồ của quá khứ. Dù đó là Osama hay Obama … cũng đều bình đẳng trước Thần Chết, cũng như trước Thượng Đế.
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à! Ông nói như là ông đã từng trải qua cái chết rồi vậy. Ông diễn tả phút giây từ giã cõi đời rất sống động và có vẻ rất thật nữa. Nhưng trên thực tế thì tôi nghĩ là kể cả ông và tôi đã chết hay Cận Tử bao giờ đâu mà biết lúc chết ra sao. Chẳng qua chỉ là mình đoán mò. Theo tôi thì mình không nên tự dọa mình để làm cho mình sợ. Ông có thái độ tích cực một chút đi. Tốt nhất là ông xem trong cuốn tạp thư có đưa ra kỹ thuật Xuất Hồn nào thực tế, cụ thể, đại chúng, rẻ tiền để con người có cơ hội đào thoát ra khỏi vương quốc của Thần Chết, tự mình dành lấy tự do.
- Ông Tổng Quản: Chắc chắn chúng ta không tìm được định nghĩa từ ngữ Xuất Hồn là cái gì trong tự điển của bất cứ ngôn ngữ nào. Cuốn Tạp Thư lại đưa ra giả thuyết về từ ngữ Xuất Hồn như sau: “Xuất Hồn: là cái Hồn và cái Tôi cùng ra đi một lúc, đến đâu đó, bỏ lại thân xác vật lý”. Định nghĩa này có lẽ có một không hai, nhưng nó giúp chúng ta một cách tích cực trong thao tác Xuất Hồn.
Thật ra ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về việc Xuất Hồn cũng như về cái chết; chỉ tại chúng ta không biết mà thôi. Chúng ta cũng chẳng tìm ra ai có kinh nghiệm để chỉ bảo về vấn đề này. Cuốn Tạp Thư có liệt kê một số hiệu ứng, tuy bề ngoài khác nhau, nhưng bản chất có thể nói là một.
A. Có lẽ hầu hết mọi người bình thường có giới tính rõ ràng thì vào một giai đoạn nào đó trong đời của mình, đã hoặc sẽ yêu ai đó với cường độ cao. Khi đường biểu diễn tình cảm ở giai đoạn đỉnh điểm, sẽ có một lúc nào đó, khi họ đang ở đâu đó, làm gì đó, nhưng thật sự họ mất hết ý thức về không gian thời gian hiện tại. Họ đang ở cạnh người mình yêu … Thế rồi, khi có ai đó gọi họ, họ giật mình như ở đâu mới về, sau đó từ từ ý thức lại hiện trạng thực tế. Theo quan điểm của Cuốn Tạp Thư, thì đây là một trường hợp Xuất Hồn ngẫu nhiên, Xuất Hồn hoàn hảo. Tại sao gọi là hoàn hảo? Gọi là hoàn hảo bởi lẽ, cái Tôi và Hồn cùng ra đi một lúc, cùng đến một nơi. Cơ thể vật lý hoàn toàn bị tách ra khỏi Hồn và cái Tôi. Thật vậy, ở trong trường hợp này, Hồn và cái Tôi đã có một sự kết hợp chặt chẽ, như là tan biến vào nhau, lệ thuộc vào nhau, tạo thành một thực thể nhất quán. Người có ý định tập Xuất Hồn, rất nên chú ý tới mô hình chuẩn, mà chính bản thân họ đã từng trải nghiệm.
B. Ai nằm ngủ cũng phải mơ, thậm chí đến thú vật cũng nằm mơ thì phải (bỏ qua khía cạnh giấc mơ được nhìn theo chiều hướng Phân Tâm Học). Ai cũng có những giấc mơ dài, rõ ràng như thật, nhiều tình tiết, diễn tiến phức tạp. Việc đó xảy ra ở một địa điểm cách xa cái giường chúng ta đang ngủ. Hồn và cái Tôi đã phản ứng một cách rất tự nhiên, độc lập một mình, không cần sự can thiệp của thân xác vật lý. Thật vậy, thân xác vật lý đang nằm ngủ, bất động trên cái giường, chẳng giúp gì được cho Hồn và cái Tôi. Chắc chắn ai cũng có thể nhớ, trong những giấc mơ mà mình từng trải qua, mình cần sự can thiệp của các cử động thuộc thân xác vật lý vì trong giấc mơ có thể xảy ra xô xát, chạy nhảy … Do không có thân xác vật lý, nên Hồn và cái Tôi rất lúng túng, không thực hiện ý định của mình được. Điều này nếu quý vị nhớ lại thì sẽ thấy tính chất đặc trưng của Xuất Hồn, là Hồn và cái Tôi tan biến vào nhau tạo thành một Thực Thể nhất quán, hoàn toàn vắng bóng cơ thể vật lý. Đây cũng là một trường hợp Xuất Hồn mà ngẫu nhiên con người thực hiện được, nhưng không hiểu rõ tiến trình này là cái gì.
Theo huyền sử của trường phái Phật Giáo, thì như quý vị đã biết, khi cơ thể vật lý của Ngài Sakya Muni bị hư hỏng do độc tố của nấm, Ngài đã sử dụng kỹ thuật Thiền Định để bỏ lại cái xác vật lý. Kỹ thuật Thiền Định rất phổ biến lúc bấy giờ, người ta gọi là hậu Upanisad. Raja Yoga là một trong 6 trường phái lúc bấy giờ. Theo tài liệu của trường phái này thì họ rất chú trọng đến kỹ thuật Samyama. Kỹ thuật này gồm 3 giai đoạn: Dharana, Dhyana, Samadhi … Với kỹ thuật này người ta có thể ứng dụng vào rất nhiều công việc. Trong chương Thần Lực, dường như người ta cũng sử dụng kỹ thuật này để Xuất Hồn.
Ngày nay, vào kỷ nguyên chúng ta đang sống, lại có những hiện tượng trái ngược với thời kỳ hậu Upanisad. Một trường phái với hàng tỷ tín đồ trên thế giới, có một tài liệu chuyên ngành gọi là Thần Học, được biên soạn công phu để dùng làm giáo trình để giảng dạy cho những vị sau này sẽ là cán bộ khung của trường phái nói trên. Thiền Định đã được du nhập chính thức vào trường phái này qua tài liệu nói trên. Nội dung cũng như hình thức văn chương nói lên tính chất vô cùng hàn lâm, kinh viện và uyên bác, tinh vi đến từng chi tiết. Nói tóm lại không thể chê vào đâu được! Tuy nhiên, dưới con mắt của một người tu Thiền Định chuyên nghiệp, thực chứng, thì sẽ nhận ra tác giả của tài liệu này chỉ làm công việc sưu tầm tài liệu, nhưng thực tế không có kinh nghiệm về Thiền Định. Giảng dạy những điều chính mình chưa từng trải qua là phước hay là họa?
Về mặt tài liệu, có rất nhiều nhà Yogi ở Ấn Độ đã kể về các vị Chân Sư. Có những vị Chân Sư sau khi nói lời chia tay với những người quen biết, họ Nhập Định bỏ lại thân xác thế gian một cách bình thản.
Ở Việt Nam cách đây một vài thập kỷ, các chuyên gia Liên Xô có đến khảo cứu về nhục thể của hai vị Sư ở miền Bắc. Thân xác hai vị Thiền Sư này lúc đó vẫn tồn tại và ở trong tư thế Thiền Định, dù phương tiện bảo quản thô sơ thủ công. Các chuyên gia Liên Xô có viết một bài báo với nhan đề: “Nụ cười an lạc”.
Nói tóm lại, dường như kỹ thuật Thiền Định thực sự là một công cụ hữu hiệu. Nếu biết sử dụng công cụ này, con người có thể bỏ lại thân xác thế gian và ra đi một cách bình thản, an lạc.
- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à, tôi có một thắc mắc. Ngày hôm nay trên thực tế, tôi thấy những vị nổi danh là đạo cao đức trọng, chẳng có ai sử dụng kỹ thuật Nhập Định để bỏ lại thân xác thế gian. Tôi có một chị bạn làm bác sĩ ở một bệnh viện lớn, kể cho tôi nghe chuyện này. Có một vị là đứng đầu ở một trường phái lớn ở Việt Nam, rất nổi danh, phải nhập viện vì nhồi máu cơ tim (Angine De Poitrine). Phút giây đối diện với bệnh tật, dường như ông quá sợ chết. Nỗi sợ này còn lớn hơn cả một người bình thường. Các bác sĩ chăm sóc nói đùa với nhau, chắc vị đó tiếc chiếc áo long bào (ám chỉ thân xác vật chất).
Câu chuyện này làm cho tôi hết sức hoang mang, mà phải nói đúng hơn làm cho cô bạn bác sĩ và tôi thất vọng. Những vị đạo cao như núi Thái Sơn, phước như Đông Hải mà còn như vậy, thì huống chi là mình, một Tam Tiểu Thư tầm thường, vô danh tiểu tốt … Với kinh nghiệm của một người làm nghề bảo tiêu, cuộc sống được thử thách trên đầu dao mũi kiếm, tôi có hai suy nghĩ, xin lỗi chẳng biết đúng hay sai, rất mong được quý độc giả hào phóng chỉ bảo.
* Một là, kỹ thuật Thiền Định chỉ là hữu danh vô thực, không thực sự có thực lực, chỉ là hư danh.
* Hai là, kỹ thuật Thiền Định là có thật, nhưng nói hơi duy tâm một tý, chẳng qua chỉ tại mình “phước mỏng, nghiệp dày“, nên gặp phải kỹ thuật Thiền Định thuộc về dạng hàng nhái, hàng dỏm … chưa có giấy kiểm định. Chẳng qua chỉ tại mình ham dễ, ham rẻ nên gặp phải loại Thiền Định … kém chất lượng.
- Ông Tổng Quản: Câu trả lời thật ra không phải là quá khó nếu chúng ta nhìn lại lịch sử phát triển của trường phái Phật Giáo tại Việt Nam. Nếu tôi không lầm thì nhóm CTR đã nhiều lần trình bày về vấn đề này nhằm phục vụ quý độc giả. Chúng ta có thể tóm lược ngắn gọn như sau: Hầu hết các cơ sở Tôn Giáo của trường phái Phật Giáo của Việt Nam ngày hôm nay, đều mang nặng màu sắc đặc thù của Trung Quốc. Các tài liệu của Trung Quốc có một lối trình bày rất Trung Quốc. Cái gì cũng nói hàng hai, mơ mơ, hồ hồ. Thí dụ “Sắc là Không, Không là Sắc”. Những đối thoại trong phim ảnh của Trung Quốc ngày hôm nay cũng chẳng khác xưa là bao. Chẳng hạn, một cô gái hỏi người yêu là “anh có yêu tôi không?” Câu trả lời: “yêu thì sao, không yêu thì sao?” Kiểu trả lời này có lẽ chỉ có ở người Trung Quốc. Tuệ Viễn là người Trung Quốc 100%. Ông chính là Kiến Trúc Sư, tác giả của trường phái Tịnh Độ quá phổ biến ở Việt Nam. Bốn cuốn kinh cơ bản của trường phái Tịnh Độ là do người Trung Quốc sáng tác. “Địa danh Tịnh Thổ”, dân gian Việt Nam gọi là cõi A Di đà là một tác phẩm thuần túy của Trung Quốc. Điều này có lẽ không còn gì để xét lại. Có một trường phái Thiền Định của Trung Quốc cũng rất phổ biến ở Việt Nam với phát biểu quá hấp dẫn: “Tiền niệm mê tức phàm, hậu niệm ngộ tức Phật” “Phút trước là con người bình thường, (nếu ngộ, là hiểu được sự thật) phút sau thành Phật”.
Tư tưởng này, cách tu Thiền Định này không thể tìm thấy trong những tài liệu khi Sakya Muni còn tại thế. Ai cũng biết bản thân của Sakya Muni, cũng phải học Thiền Định với các vị thầy lúc bất giờ. Ngài Thiền Định dưới cây Bồ Đề, Thiền Định suốt cả đời mình trong mấy chục năm và … Thiền Định trước khi bỏ xác thế gian. Nếu so sánh với cách tập luyện của Sakya Muni, thì lối Thiền Định của người Trung Quốc được phổ biến ở Việt Nam, có thể mô tả là “Đại ngôn, lộng ngôn”!
(còn tiếp) ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu ý!
Đề mục 1: Sakya Muni
Phật ngồi trên tòa sen ánh vàng trong quả cầu 2cm. Xin tham khảo
"Con mắt thứ ba: Xuyên Vân Kiếm Pháp 11".
Sakya Muni và Chân ngôn ...
"Om muni muni maha muni sakya muni ye soha"
.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
Đề mục 2: Quán Thế Âm
Quán Thế Âm ngồi trên tòa sen ánh vàng trong quả cầu 2cm.
Xin tham khảo
"Con mắt thứ ba: Xuyên Vân Kiếm Pháp 12".
Quán Âm Tự Tại và Chân ngôn ...
"Om mani padme hum"
.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.
Đề mục 3: Đức Mẹ Maria
Đức mẹ Maria trong quả cầu 2cm. Xin tham khảo
"Con mắt thứ ba: Xuyên Vân Kiếm Pháp 12".
Nếu là người Công giáo, quý độc giả có thể chọn hình tượng Ðức Mẹ Maria.
Quý vị phải nghe bằng tưởng tượng kinh Kính Mừng:
“ Kính mừng Maria đầy ơn phước, Ðức Chúa trời ở cùng Bà,
Bà có phước lạ, hơn mọi người Nữ và Giê Su con lòng Bà cùng phúc lạ.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội,
khi nay và trong giờ lâm tử. Amen ”
Tập 35: Trận chiến cuối cùng Armageddon giữa con người và thần Chết (Phần 2)
- Tam Tiểu Thư: Thông thường thì ai cũng nghĩ giấc mơ là không có thật, nghĩa là nó "Ảo". Trong cuốn tự điển Pháp ngữ, thì họ định nghĩa "Hoang Tưởng" hay "Ảo" là thế này: “cảm giác bệnh hoạn, không được tạo ra bởi một vật có thật. Tất cả các giấc mơ là ảo giác”. Tôi nghĩ việc xuất hồn có lẽ cũng tương tự như vậy. Cá nhân tôi thì chỉ nghe nói, chứ thực tế có thấy ai xuất hồn được đâu. Tôi nghĩ hầu hết quý độc giả cũng chẳng thấy ai xuất hồn được cả, nói vu vơ thì biết lấy đâu mà tin chứ?
- Ông Tổng Quản: Để tiếp cận thực tế với vấn đề xuất hồn, thiết nghĩ chúng ta nên duyệt xét lại khái niệm "Ảo" mà người ta thường nói tới. Có người còn gọi đó là "Hoang Tưởng".
Thường thường cái gì không ở trong một trong bốn trạng thái của vật lý thì người ta gọi là "Ảo". Dân gian mà nói thì cái gì xúc giác không sờ mó được, không cân đo được, thì người ta gọi là "Ảo", không có thật. Chỉ cần để ý một chút, quý vị sẽ phát hiện nhiều hiện tượng mà các giác quan chúng ta không tiếp cận được. Lý do là vì nó vượt qua ngưỡng của giác quan, hoặc do không có loại giác quan để tiếp cận các hiện tượng khách quan tự nhiên. Con người không thể biết trước có sóng thần, không có khả năng tìm nguồn nước như con Voi, không có giác quan để biết trước trời sẽ mưa trong nhiều giờ đồng hồ nữa như con Dê. Chúng ta cũng không có khả năng nghe siêu âm như con Chó, không thể nhìn được bức xạ nhiệt, lực tương tác hấp dẫn … Thế nhưng ai cũng biết những điều kể trên là thực sự hiện hữu.
Có những hệ thống kiến thức, khoa học khác không có quan niệm về vật chất như chúng ta, về việc cho là cái gì có thật, cái gì không có thật. Theo hiểu biết ngày hôm nay, có vào khoảng 117 nguyên tố hóa học, là những viên gạch, đã xây dựng nên thế giới khách quan muôn màu muôn vẻ. Đối với loài người chúng ta thì thế giới vật chất là như vậy. Ở những hệ thống khác, mà có lẽ chúng ta chưa phát hiện được thì lại quan niệm vật chất được xây dựng nên bằng 28 yếu tố, và số lượng yếu tố này có thể tăng giảm tùy theo không gian nó hiện hữu. Người Á Châu quen thuộc với văn hóa của Trung Quốc, thì chẳng xa lạ gì với 5 yếu tố cơ bản gọi là Ngũ Hành, bao gồm: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Căn cứ vào hệ thống vừa đề cập ở trên, cuộc sống bình thường của con người có 28 yếu tố cấu tạo nên thế giới vật chất. Nhưng nếu ai thực hành Thiền Định và đạt được Thiền Hữu Sắc, thì các nguyên tố chỉ còn trên dưới 20. Tiến thêm lên một chút nữa, đạt được cảnh giới Vô Tưởng Định thì thế giới khách quan vật chất chỉ còn 17 yếu tố mà thôi.
Nói đơn giản dễ hiểu, cái gì mà chúng ta quan niệm vật chất ở cảnh giới của con người đang hiện hữu, thì nó lại không phải là vật chất của những không gian khác. Khái niệm vật chất chỉ có một giá trị vô cùng tương đối đối với không gian chúng đang hiện hữu.
Kiến thức này có thể giúp giải thích rất nhiều loại giấc mơ mà con người thường hay gặp. Trong lúc nằm mơ, khi đụng chạm với những hiện tượng khách quan, có thể là tích cực, có thể là tiêu cực … chúng ta âu lo, sợ hãi, vui mừng thậm chí là khóc lóc … tùy thuộc vào tình tiết, tiến trình của giấc mơ. Trạng thái tâm lý của chúng ta coi những diễn tiến của giấc mơ là hoàn toàn có thật. Chính vì lý do chúng ta chắc chắn là có thật nên mới có diễn tiến về tình cảm nói trên. Khi thức giấc, chúng ta mới gọi những diễn tiến trong giấc ngủ là Mơ. Chúng ta đang sinh hoạt với một cơ thể vật chất ở một loại không gian khác với không gian của Giấc Mơ. Phải nói rằng, con người là một sinh vật lưỡng cư. Sự thật có lẽ còn nhiều hơn cả lưỡng cư. Trang Tử thuở xưa phân vân tự hỏi, không biết Mình là Mướm hay Mướm là Mình.
Muốn hiểu về Xuất Hồn, chúng ta rất cần phải giải quyết được những tư tưởng cụ thể như "Ảo" là gì, "Mơ" là cái gì. Nếu không giải quyết được thì chúng ta không thể thực hiện khả năng xuất hồn. Những Giấc Mơ sâu đậm, kéo dài, với nhiều tình tiết, có thể được coi như một dạng xuất hồn ngẫu nhiên, không chủ động.
Xuất Hồn là tách ra khỏi cơ thể vật lý quen thuộc một cái gì đó có cấu tạo hoàn toàn khác với cơ thể vật lý. Nó (Hồn) có một không gian khác để sinh hoạt, để tồn tại. Các loại giác quan của nó, khác hẳn với giác quan của cơ thể vật lý. Do đó, có những vị viết sách cho là việc thấy biết của một cơ thể khác với cơ thể vật lý, mà lại giống như việc thấy biết của cơ thể vật lý, thì có lẽ tự mâu thuẫn với chính mình.
Bộ môn này có lẽ đã được con người phát hiện ra từ nhiều ngàn năm, nhưng đến nay nó vẫn hoàn toàn là mới. Nó đang chờ đợi sự khai phá, bổ túc, triển khai trên thực tế của con người.
Có lẽ việc "Thấy Biết" giống như cơ thể vật lý chỉ xảy ra trong giai đoạn chuyển tiếp (transition) một thời gian vô cùng ngắn ngủi.
Người ta e là một số vị nào đó, đã truyền bá cách tập luyện không có trên thực tế, làm cho những người tin tưởng, đã bỏ công ra tập luyện trong nhiều thập kỷ. Tất nhiên là chẳng có kết quả gì cả.
Rất có thể có nhiều quý vị đang đọc những dòng chữ này, đã từng tham khảo những tài liệu của tác giả Hoskin, còn gọi là Lạt Ma Lobsang Rampa. Tài liệu này nói về đời sống với một vị Lạt Ma và được cho là do một con mèo Thái Lan đã đọc. Có hàng chục tài liệu dạy cách tập luyện về rất nhiều lãnh vực, và lãnh vực nào cũng cuốn hút mọi người. Một trong những lãnh vực mà tất nhiên ai đã đọc loại sách vở này cũng phải quan tâm là việc xuất hồn. Chắc chắn ai cũng tự hỏi, không biết trên thế giới, có ai đã tập thành công theo phương pháp này chưa? Rất mong quý độc giả đóng góp ý kiến phản hồi, hy vọng là biết đâu có ngày vấn đề được làm rõ.
Chắc hẳn quý độc giả còn nhớ bộ phim Oan hồn (The Ghost) với bản nhạc phim nổi tiếng Unchained Melody. Trong phim, linh hồn của một người đã chết, tập đi tập lại với cố gắng làm di chuyển một lon Coca không có nước, mà quá khó khăn, không thể làm được!
Từ góc độ vật lý lý thuyết, thì có thể giải thích là vật chất cấu tạo nên một Vong Linh thì mịn hơn cấu tạo vật chất của thế giới Con Người. Rất có thể giả thuyết này mô tả ít nhiều đúng với sự thật khách quan. Chính vì các nguyên tử vật chất đối với loại thực thể như Ma, Hồn xuất ra khỏi cơ thể, người cận tử, quá trống trải, quá loãng nên mới có thể đi xuyên qua vật chất: Cánh cửa đóng, bức tường, sông, núi … một cách dễ dàng.
- Tam Tiểu Thư: Nghe những gì ông vừa trình bày về cái mà người ta gọi là "Ảo" , tôi cũng hiểu ít nhiều và tạm đồng ý với ông. Cái "Ảo" ở nơi này là "Thật" ở nơi kia, cái "Thật" ở nơi kia thì lại là "Ảo" ở nơi này. Rắc rối thiệt đó! Ông Tổng Quản ơi, khi ông nhập định thì ông thấy Tam tiểu Thư này là ảo hay thật vậy ông?
Cách hay nhất là ông hãy chỉ cho tôi cách Xuất Hồn bằng kỹ thuật Thiền Định đi, để tôi có thể kiểm chứng chuyện “Thật như Ảo, Ảo như Thật” này ông nhé!
- Ông Tổng Quản: Ok! Bây giờ đã khuya lắm rồi. Chúng ta cần nghỉ ngơi vì ngày mai sẽ là một ngày vất vả đó.
Trong kỳ tới, tôi sẽ trình bày cho cô cùng quý độc giả cách Xuất Hồn dựa trên cơ sở kỹ thuật Thiền Định mà cuốn Tạp Thư đã đề cập đến nhé!
Tam Tiểu Thư ngồi im lặng, nhìn xuyên qua màn đêm. Không gian bên ngoài là một màu đen thăm thẳm. Lòng cô có chút gì đó hoảng sợ khi đối diện với màu trời đêm bao la nhưng tăm tối. Cô đang tưởng tượng về phút giây mình sẽ từ biệt cõi đời và suy nghĩ về sự khác biệt giữa cái Chết của Cô và cái Chết của người Tổng Quản …
(còn tiếp) ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu ý!
- Tam Tiểu Thư: Thông thường thì ai cũng nghĩ giấc mơ là không có thật, nghĩa là nó "Ảo". Trong cuốn tự điển Pháp ngữ, thì họ định nghĩa "Hoang Tưởng" hay "Ảo" là thế này: “cảm giác bệnh hoạn, không được tạo ra bởi một vật có thật. Tất cả các giấc mơ là ảo giác”. Tôi nghĩ việc xuất hồn có lẽ cũng tương tự như vậy. Cá nhân tôi thì chỉ nghe nói, chứ thực tế có thấy ai xuất hồn được đâu. Tôi nghĩ hầu hết quý độc giả cũng chẳng thấy ai xuất hồn được cả, nói vu vơ thì biết lấy đâu mà tin chứ?
- Ông Tổng Quản: Để tiếp cận thực tế với vấn đề xuất hồn, thiết nghĩ chúng ta nên duyệt xét lại khái niệm "Ảo" mà người ta thường nói tới. Có người còn gọi đó là "Hoang Tưởng".
Thường thường cái gì không ở trong một trong bốn trạng thái của vật lý thì người ta gọi là "Ảo". Dân gian mà nói thì cái gì xúc giác không sờ mó được, không cân đo được, thì người ta gọi là "Ảo", không có thật. Chỉ cần để ý một chút, quý vị sẽ phát hiện nhiều hiện tượng mà các giác quan chúng ta không tiếp cận được. Lý do là vì nó vượt qua ngưỡng của giác quan, hoặc do không có loại giác quan để tiếp cận các hiện tượng khách quan tự nhiên. Con người không thể biết trước có sóng thần, không có khả năng tìm nguồn nước như con Voi, không có giác quan để biết trước trời sẽ mưa trong nhiều giờ đồng hồ nữa như con Dê. Chúng ta cũng không có khả năng nghe siêu âm như con Chó, không thể nhìn được bức xạ nhiệt, lực tương tác hấp dẫn … Thế nhưng ai cũng biết những điều kể trên là thực sự hiện hữu.
Có những hệ thống kiến thức, khoa học khác không có quan niệm về vật chất như chúng ta, về việc cho là cái gì có thật, cái gì không có thật. Theo hiểu biết ngày hôm nay, có vào khoảng 117 nguyên tố hóa học, là những viên gạch, đã xây dựng nên thế giới khách quan muôn màu muôn vẻ. Đối với loài người chúng ta thì thế giới vật chất là như vậy. Ở những hệ thống khác, mà có lẽ chúng ta chưa phát hiện được thì lại quan niệm vật chất được xây dựng nên bằng 28 yếu tố, và số lượng yếu tố này có thể tăng giảm tùy theo không gian nó hiện hữu. Người Á Châu quen thuộc với văn hóa của Trung Quốc, thì chẳng xa lạ gì với 5 yếu tố cơ bản gọi là Ngũ Hành, bao gồm: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Căn cứ vào hệ thống vừa đề cập ở trên, cuộc sống bình thường của con người có 28 yếu tố cấu tạo nên thế giới vật chất. Nhưng nếu ai thực hành Thiền Định và đạt được Thiền Hữu Sắc, thì các nguyên tố chỉ còn trên dưới 20. Tiến thêm lên một chút nữa, đạt được cảnh giới Vô Tưởng Định thì thế giới khách quan vật chất chỉ còn 17 yếu tố mà thôi.
Nói đơn giản dễ hiểu, cái gì mà chúng ta quan niệm vật chất ở cảnh giới của con người đang hiện hữu, thì nó lại không phải là vật chất của những không gian khác. Khái niệm vật chất chỉ có một giá trị vô cùng tương đối đối với không gian chúng đang hiện hữu.
Kiến thức này có thể giúp giải thích rất nhiều loại giấc mơ mà con người thường hay gặp. Trong lúc nằm mơ, khi đụng chạm với những hiện tượng khách quan, có thể là tích cực, có thể là tiêu cực … chúng ta âu lo, sợ hãi, vui mừng thậm chí là khóc lóc … tùy thuộc vào tình tiết, tiến trình của giấc mơ. Trạng thái tâm lý của chúng ta coi những diễn tiến của giấc mơ là hoàn toàn có thật. Chính vì lý do chúng ta chắc chắn là có thật nên mới có diễn tiến về tình cảm nói trên. Khi thức giấc, chúng ta mới gọi những diễn tiến trong giấc ngủ là Mơ. Chúng ta đang sinh hoạt với một cơ thể vật chất ở một loại không gian khác với không gian của Giấc Mơ. Phải nói rằng, con người là một sinh vật lưỡng cư. Sự thật có lẽ còn nhiều hơn cả lưỡng cư. Trang Tử thuở xưa phân vân tự hỏi, không biết Mình là Mướm hay Mướm là Mình.
Muốn hiểu về Xuất Hồn, chúng ta rất cần phải giải quyết được những tư tưởng cụ thể như "Ảo" là gì, "Mơ" là cái gì. Nếu không giải quyết được thì chúng ta không thể thực hiện khả năng xuất hồn. Những Giấc Mơ sâu đậm, kéo dài, với nhiều tình tiết, có thể được coi như một dạng xuất hồn ngẫu nhiên, không chủ động.
Xuất Hồn là tách ra khỏi cơ thể vật lý quen thuộc một cái gì đó có cấu tạo hoàn toàn khác với cơ thể vật lý. Nó (Hồn) có một không gian khác để sinh hoạt, để tồn tại. Các loại giác quan của nó, khác hẳn với giác quan của cơ thể vật lý. Do đó, có những vị viết sách cho là việc thấy biết của một cơ thể khác với cơ thể vật lý, mà lại giống như việc thấy biết của cơ thể vật lý, thì có lẽ tự mâu thuẫn với chính mình.
Bộ môn này có lẽ đã được con người phát hiện ra từ nhiều ngàn năm, nhưng đến nay nó vẫn hoàn toàn là mới. Nó đang chờ đợi sự khai phá, bổ túc, triển khai trên thực tế của con người.
Có lẽ việc "Thấy Biết" giống như cơ thể vật lý chỉ xảy ra trong giai đoạn chuyển tiếp (transition) một thời gian vô cùng ngắn ngủi.
Người ta e là một số vị nào đó, đã truyền bá cách tập luyện không có trên thực tế, làm cho những người tin tưởng, đã bỏ công ra tập luyện trong nhiều thập kỷ. Tất nhiên là chẳng có kết quả gì cả.
Rất có thể có nhiều quý vị đang đọc những dòng chữ này, đã từng tham khảo những tài liệu của tác giả Hoskin, còn gọi là Lạt Ma Lobsang Rampa. Tài liệu này nói về đời sống với một vị Lạt Ma và được cho là do một con mèo Thái Lan đã đọc. Có hàng chục tài liệu dạy cách tập luyện về rất nhiều lãnh vực, và lãnh vực nào cũng cuốn hút mọi người. Một trong những lãnh vực mà tất nhiên ai đã đọc loại sách vở này cũng phải quan tâm là việc xuất hồn. Chắc chắn ai cũng tự hỏi, không biết trên thế giới, có ai đã tập thành công theo phương pháp này chưa? Rất mong quý độc giả đóng góp ý kiến phản hồi, hy vọng là biết đâu có ngày vấn đề được làm rõ.
Chắc hẳn quý độc giả còn nhớ bộ phim Oan hồn (The Ghost) với bản nhạc phim nổi tiếng Unchained Melody. Trong phim, linh hồn của một người đã chết, tập đi tập lại với cố gắng làm di chuyển một lon Coca không có nước, mà quá khó khăn, không thể làm được!
Từ góc độ vật lý lý thuyết, thì có thể giải thích là vật chất cấu tạo nên một Vong Linh thì mịn hơn cấu tạo vật chất của thế giới Con Người. Rất có thể giả thuyết này mô tả ít nhiều đúng với sự thật khách quan. Chính vì các nguyên tử vật chất đối với loại thực thể như Ma, Hồn xuất ra khỏi cơ thể, người cận tử, quá trống trải, quá loãng nên mới có thể đi xuyên qua vật chất: Cánh cửa đóng, bức tường, sông, núi … một cách dễ dàng.
- Tam Tiểu Thư: Nghe những gì ông vừa trình bày về cái mà người ta gọi là "Ảo" , tôi cũng hiểu ít nhiều và tạm đồng ý với ông. Cái "Ảo" ở nơi này là "Thật" ở nơi kia, cái "Thật" ở nơi kia thì lại là "Ảo" ở nơi này. Rắc rối thiệt đó! Ông Tổng Quản ơi, khi ông nhập định thì ông thấy Tam tiểu Thư này là ảo hay thật vậy ông?
Cách hay nhất là ông hãy chỉ cho tôi cách Xuất Hồn bằng kỹ thuật Thiền Định đi, để tôi có thể kiểm chứng chuyện “Thật như Ảo, Ảo như Thật” này ông nhé!
- Ông Tổng Quản: Ok! Bây giờ đã khuya lắm rồi. Chúng ta cần nghỉ ngơi vì ngày mai sẽ là một ngày vất vả đó.
Trong kỳ tới, tôi sẽ trình bày cho cô cùng quý độc giả cách Xuất Hồn dựa trên cơ sở kỹ thuật Thiền Định mà cuốn Tạp Thư đã đề cập đến nhé!
Tam Tiểu Thư ngồi im lặng, nhìn xuyên qua màn đêm. Không gian bên ngoài là một màu đen thăm thẳm. Lòng cô có chút gì đó hoảng sợ khi đối diện với màu trời đêm bao la nhưng tăm tối. Cô đang tưởng tượng về phút giây mình sẽ từ biệt cõi đời và suy nghĩ về sự khác biệt giữa cái Chết của Cô và cái Chết của người Tổng Quản …
(còn tiếp) ...
Tác giả: CTR
Ghi Chú:
Những bài viết của nhóm CTR, chỉ là sản phẩm của giả tưởng. Tuyệt đối không có bất cứ một giá trị nào, ở bất cứ lãnh vực nào. Mong quý độc giả lưu ý!
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)