Thứ Hai, 12 tháng 9, 2016

VẤN ĐỀ NHẬP ĐỊNH



Bài toán khó giải cho bất cứ ai thực hành thiền định,bất cứ ỏ đâu,lúc nào,trường phái nào.Vấn đề rất cũ của nhân loại,nhưng luôn luôn là mới lạ cho tất cả mọi người.

Tam Tiểu Thư:

Ông Tổng Quản à! để hy vọng nhập được định,tôi sử dụng đủ các kỹ thuật của các trường phái,từ đông sang tây,từ cổ chí kim,kể cả kỹ thuật của trường phái thôi miên,ấn chú,đàn Pháp Tây Tạng,tôi thấy việc nhập định như trò chơi trốn tìm...Tôi có hỏi thăm các bạn đồng đạo,họ cũng cho biết tình hình cũng như vậy.Ấy vậy mà có người bảo " đi,đứng,nằm,ngồi đều nhập định được" tôi thấy nằm,ngồi mà nhập định còn chẳng được...vậy đi đứng mà nhập định thì có đáng tin cậy không? Tôi thấy trên trang web của các trường phái,người ta hay hỏi Sư phụ của họ,cho họ công án (casina) để làm đối tượng quán tưởng.Cứ cho là công án của Sư phụ như một phép mầu làm cho ai đó quán tưởng đưa đến định tâm.Nhưng nếu vì lý do gì đó mà không có công án nhập định thì mình phải làm sao? con đường thì có lẽ quá dài,mà mình thì luôn luôn lệ thuộc vào một yếu tố bất định! Mặt khác,ai dám chắc là Sư phụ mình nhập định được?!

Tôi nghĩ,để giải quyết vấn đề dứt điểm,xóa đi nỗi thống khổ của người nhập định,ta nên quan sát các hiện tượng tự nhiên xẩy ra trong chính mình một cách khách quan nhất có thể,tìm ra mối liên hệ của các hiện tượng,sau đó xây dựng ra những ý tưởng cơ bản,cuối cùng thiết lập những giả thuyết.Tất nhiên,giả thuyết phải được kiểm định bằng thực tế v v...

Ông Tổng Quản:

Những điều cô vừa trình bày hoàn toàn phù hợp với một tri thức luận lành mạnh.Tuy nhiên,các thao tác,các kỹ thuật,các tiến trình của thiền định lại thuộc về những khung thời gian khác,khung tham khảo khác,hệ quy chiếu khác,cái quan trọng hơn nữa là những hệ thống lý luận hình thức hoàn toàn khác hẳn những gì chúng ta có thể khái niệm được trong cuộc sống bình thường.

Chúng ta có thể đan cử một thí dụ điển hình sau đây:

- Trên giao diện của một máy tính phổ thông,có rất nhiều biểu tượng,tượng trưng cho một vấn đề gì đó và người ta quy ước mặc định biểu tượng này là cái gì v v...Ở một hệ quy chiếu nào đó của các lớp thiền định,nó cũng xuất hiện một số biểu tượng,cụ thể như các con giáp của Đông Phương cũng như Tây Phương.Điều trình bày trên không thể hiện được cho ai đó không thực chứng thiền định.

Có lẽ chúng ta đã đi quá xa vấn đề.Tuy nhiên,chưa hẳn là vô ích,việc này làm cho chúng ta hiểu vì sao việc nhập định lại khó,nhập định là thao tác kỹ thuật để chuyển đổi hệ quy chiếu,chuyển đổi cảnh giới,nói theo từ ngữ tôn giáo,chuyển đổi từ đời sống này qua đời sống khác một cách chủ động.Việc chuyển đổi này,bình thường chỉ xảy ra khi mình chết.Nói một cách khác,thiền định,nhập định là chủ động tạo ra một cái chết theo ý muốn của mình,đi ngược lại tiến trình của thế giới tự nhiên.

Nếu chúng ta hiểu như trên thì việc nhập định là một thao tác khó khăn là điều tất nhiên rồi.

Tam Tiểu Thư:

Tôi thấy ông nói mông lung,dài dòng khó hiểu quá,thậm chí là...lạc đề.Có cách nào ngắn gọn dễ hiểu hơn không ông?

Ông Tổng Quản:

Trong mua bán người ta thường nói " tiền nào của đó " hay " của rẻ là của ối ".Hàng hóa tinh thần cũng vậy "chúng ta không thể tiếp cận với bộ môn toán học bằng thú vui nhẹ nhàng ".Nếu chúng ta xét bộ môn thiền định là học về những quy luật của thế giới tự nhiên,nói một cách khác,có lẽ người ta nên coi bộ môn thiền định trả về đúng vị trí đích thực của nó,là môn học khoa học tự nhiên,vật lý,sinh học v v...Ai cũng biết ngày hôm nay,những điều khoa học hiện đại biết rất ít,điều không biết thì quá nhiều,nhiều đến cỡ nào thì không ai biết!

Tam Tiểu Thư:

Thôi mình đi vào thực tế,liệu ông có một mô hình nào đó để làm cho ai đó nhập định không bao giờ thất bại( xin lỗi tôi thực tế và hơi tham lam)

Ông Tổng Quản:

Cô Tam Tiểu Thư ạ! tôi tạm đặt tên " Mandala made in Việt Nam"

Tiến trình thao tác như sau:

- Đầu tiên gọi là điều thân,quý vị hãy chọn một thư thế nằm,ngồi...cho là thoải mái,thư giản nhất.

- Sau đó tập trung tại luân xa trước trán,giữa hai chân mày,trên hai chân mày một chút,gọi là luân xa AJNA.

- Tiếp đến tưởng tượng ra một bài toán rợ nào đó bất kì,phép toán nào cũng được,thí dụ:

8259367

x 73

Làm toán rợ (nhẩm) nhìn thấy các con số tại luân xa AJNA,cuối cùng ra đáp số phải đúng. Dù quý vị có là thần đồng về con số,khi đến một giới hạn nào đó,quý vị cũng đến lúc sẽ bị quá tải.

- Lúc này,hơi thở sẽ dồn dập hơn,đó là tín hiệu sắp mất ý thức,có thể sẽ mê đi trong một lúc.Sau đó,thấy mình ở một trạng thái khác bình thường.

Tam Tiểu Thư:

- Đơn giản quá,để tôi thử xem sao! sao ông không sớm bày cho tôi?

Ông Tổng Quản:(tươi cười)

- Cái dễ và đơn giản theo cô nghĩ,nhưng có người phải mất 40 năm để tìm ra nó đấy cô ạ!

Tam Tiểu Thư:

- Thật vậy hả ông?

SỰ RA ĐỜI CỦA MỘT THAO TÁC KỸ THUẬT NÀO ĐÓ ĐỂ NHẬP ĐỊNH LÀ VIỆC CẦN THIẾT PHẢI CÓ






Tam Tiểu Thư:

- Tôi thấy không có bộ môn nào lại "vớ vẩn" như bộ môn thiền định,nữa tôn giáo, nữa khoa học.Nếu nhìn vào kỹ thuật thiền định của trường phái Skya Muni thì chỉ thấy có các thao tác thuần túy kỹ thuật,thần linh,thượng đế đều vắng bóng.Tuy nhiên,bước sang đại thừa(nếu coi là một loại tôn giáo)thì có thừa các thần linh. Các Mandala Tây Tạng có quá nhiều thần thánh,thần nam,thần nữ,thiện ác v v...Tài liệu của trường phái Raja yoga thì từ chối thần linh(đừng nghe lời nịnh hót của thần thánh) thần linh không có vai trò gì trò gì trong quá trình thực hành thiền định.

- Ông Tổng Quản à! theo lịch sử thì thiền định,tiền thiền định ( trầm tư mặc tưởng ) có từ nhiều ngàn năm.mặc dù đã mấy ngàn tuổi mà vẫn cần phải " bú mớm " " ! " Bộ môn thiền định lạ quá phải không ông?" cái rắc rối đáng lo ngại nhất là trạng thái thiền định có thật hiện hữu? hay chỉ là một trạng thái sinh hóa? nếu thực sự hiện hữu ngoài vật chất thì làm sao,cách nào,kỹ thuật nào để tạo được trạng thái này? có trạng thái thiền định ở Việt Nam in tài liệu như một tờ rơi,để hướng dẫn về kỹ thuật nhập định,có người lại bảo thầy đánh cho một cái,thét một tiếng là tạo ra một trạng thái nhập định...thậm chí là giác ngộ,còn đáng quan ngại hơn nữa!

- Tôi quá mệt mỏi về các thông tin trái chiều,tôi thực hành thì lúc được lúc không! tôi nghĩ các vị độc giả của trang này có lẽ cũng vậy,có những vị thực hành vài năm và cũng có những quý vị bỏ ra cả đời người,nhưng"cho rất nhiều nhưng chẳng nhận được bao nhiêu"!

Ông Tổng Quản:

" Bộ môn thiền định ngộ quá phải không quý vị"! (đạo văn của một bài thơ) - Kính thưa quý độc giả.Thật vậy không có phát minh nào từ trên trời rơi xuống,có thể đại đa số chấp nhận một cách thụ động những gì tài liệu hay bậc thầy nào đó truyền đạt,tuy nhiên,lại có người không thụ động,lại tìm cách cải thiện, bổ túc,sửa chữa.Thậm chí tìm thấy sự sai lầm của những người đi trước,đây chính là bước đầu của việc tìm ra những cái mới,hay nói đúng hơn là phát minh.

Nói về tiến trình nhập định,có lẽ chỉ có trường phái của Skya Mu ni là chi tiết,tinh vi nhất.Nổi tiếng như Raja yoga chỉ cũng mô tả sơ sài 3 giai đoạn: DHARAWA - DHYANA - SAMADHI, chỉ có vậy thôi.Trường phái của Skya Muni lại có nhiều tài liệu mô tả về đề tài nhập định: Trung Bộ Kinh,các tài liệu Vi Diệu Pháp v v...

- Loại bỏ nhiều lý thuyết,chi tiết quá phức tạp: luồng tâm thức,tâm vương tâm sở thiền tâm v v...Thực tế diễn tiến như sau đưa đến định tâm:

1. Tầm: tìm một đối tượng nào đó để chú tâm.

2. Tứ: liên tục tập trung vào đối tượng đó.

Có thể thuyết minh cho dễ hiểu như thế này: Chú tâm vào một viên bi chẳng hạn,việc chú tâm vào viên bi phải liên tục,không gián đoạn.Nếu hai công đoạn này đạt được thì sẽ đưa đến:

3. Nhất tâm

Nhất tâm có nghĩa là nhập định.

- Thực tế,cái khó khăn rắc rối nằm ở khâu thứ 2 - Tứ.

- Bản chất con người,bình dân mà nói là "tâm viên ý mã"

- Theo Vi Diệu Pháp thì luồng tâm thức thay đổi liên tục,sóng não có chuyển động Sin.Do đó,tứ (chú tâm liên tục vào một đối tượng duy nhất) là một thao tác kỹ thuật mâu thuẩn cơ bản tù bản chất của con người. Khổ nổi,yếu tố Tứ lại là một yếu tố quyết định,cần phải đủ để đưa đến nhập định (nhất tâm).

- Sakya Muni,Patagali,thôi miên...đều khuyến dụ bằng một định đề "chú tâm vào một vật duy nhất" đây có thể là một sự sai lầm cố ý hay là một cái bẫy?!.Khi ứng dụng trên thực tế lâu ngày,người ta thấy có cái gì đó không ổn,có cái gì đó sai lầm mà không biết nó sai lầm ở chỗ nào,Vi Diệu Pháp còn chưa ra sơ tướng,thô tướng,tợ tướng v v...càng tập một cách chính quy,quy ước càng thất bại,nhưng chẳng hiểu tại sao! Không nhập được định thì mọi thứ đều bế tắc,nó là ngưỡng cửa bắt buộc phải đi qua.Tuy nhiên,càng cố gắng để đi lại càng không qua! Nổi niềm biết tỏ cùng ai!Tuy nhiên, khi quan sát các tu sĩ Tây Tạng,họ tu tập quán tưởng từ chân ngôn đơn sơ, ấn,chủ chân ngôn cho đến các Mandala đầy dãy chân ngôn,ấn chú,thần thánh v v...Tuy nhiên,họ đạt được nhiều thành tích,được nhiều người biết đến.

Tam Tiểu Thư:

Như vậy,có lẽ các vị Lạt Ma đã tìm ra đáp án. Nói một cách khác,họ đã giải được bài toán" Casina ",họ đã giải mã được 5 ẩn số: Tầm - Tứ - Nhất tâm - Hỷ - Lạc. Cụ thể là họ vui vẻ,hình như họ tự nguyện sống độc cư,có vị đạt được thành tích nào đó nên dừng lại (tự ý) sống với nữ thần Đaikini.

Ông Tổng Quản:

- Tam Tiểu Thư nhận xét chính xác! Vâng,có một cách để tìm hiểu sự thật là hãy tự mình dấn thân để thử nghiệm,tìm hiểu xem "phép lạ" của Mandala Tây Tạng ở đâu? Do những thực thể chưa xác định hỗ trợ,do năng lượng chưa xác định được của ấn,chú hay do tính chất cơ học của Mandala đã tác động lên ý thức của con người.

- Thực tế cho thấy,ngoài những tác động chưa xác định.Mỗi Mandala có một nội dung khác nhau.Thí dụ: Cầu tài,cầu an v v...Để thực hiện nội dung của từng Madala một,đòi hỏi một tiến trình phức tạp,phải thực hiện một lúc (ấn,chú,công năng).Việc này làm cho chúng ta tập trung cao độ ( vì có những chi tiết phát triển khai đồng bộ cùng một lúc) việc tập trung phải liên tục,không gián đoạn vì phải thực hiện nội dung của Mandala đề ra,thí dụ: Cứu nạn,chữa bịnh v v...

- Đến đây,hình như bài toán đã có lời giải.Chìa khóa có lẽ đã tìm thấy.Tiến trình nói trên của một Mandala là đáp án của số"Tứ". Giải quyết được khâu "Tứ" thì hệ quả tất yếu là "Nhất tâm"."MISSING LINR" đã được tìm thấy.

Tam Tiểu Thư:

Nói như ông thì thì tôi phải đi Tây Tạng các Mandala,ôi! tôi đang đi bảo tiêu để kiếm sống hàng ngày,thứ nữa lấy tiền đâu mà mua vé máy bay."chiếc chìa khóa" của ông thật là vô ích,không tưởng( utopic) Tam Tiểu Thư này tội nghiệp quá phải không(đạo văn của một nhà thơ nổi tiếng).

Ông Tổng Quản:

Tôi có truy cập trong cuốn "tạp thư" trong đó có lời giải đáp rồi.Phương án này: ngon,bổ,đẹp,rẻ ở trong tầm tay của mọi người,phương án này mình hoàn toàn chủ động,"tự thắp đuốc mà đi" miễn là chịu khó một chút thôi.Để hiểu được cơ chế,bản chất,tính chất cơ học của vấn đề,thì...cả đời chẳng phải lệ thuộc ở ai cả.

Tam Tiểu Thư:

Có thật như vậy không ông? Xin ông giải thích!

Ông Tổng Quản:

Sự thật vốn đơn giản Tam Tiểu Thư à! theo tâm lý học,cơ chế của sự chú ý là: cái gì mạnh,cái gì lạ,cái gì có lợi,cái gì ưa thích v v...những yếu tố này làm cho người ta chú ý liên tục,lâu dài.Nhưng mặt trái của vấn đề này là,những yếu tố nói trên thuộc về đời sống tình cảm câu hữu(liên hệ) với những bất thiện tâm mang yếu tố tích cực đưa đến tâm "Si"(mê muội,hiểu sai sự thật).Cũng yếu tố tương tự nêu trên,nếu thuộc về đời sống lý trí(theo tâm lý học) thì lại làm cho ý thức mệt mỏi,quá tải,nếu kéo dài liên tục.Nếu đối chiếu tiến trình tâm lý này với luồng tâm thức của tài liệu Vi Diệu Pháp thì thấy có sự tương thích,đưa đến Javana.Để minh họa vấn đề,chúng ta có thể thuyết minh như thế này:

Ở giai đoạn Tầm ( tìm đối tượng,tìm casina)chúng ta chọn đối tượng mang tính chất trung tính,nội dung trung tính(không yêu,không ghét) để đạt được nội dung này thì phải đi qua nhiều diễn tiếng phức tạp thuộc đời sống tâm lý,lý trí.

Có thể những giải thích nói trên chính là bản chất về nội dung của các Madala Tây Tạng.Chưa kể các Madala Tây Tạng này còn hàm chứa một yếu tố" tự thôi miên" rất mạnh,đó là sự hiện diện của các thần linh...đáp ứng yếu tố tâm lý tự ti vốn có bẩm sinh của con người,đáp ứng yếu tố tâm lý lẫn lộn chủ thể và đối tượng.Nói theo trường phái Skya Muni nó đáp ứng món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.Chúng ta nhớ lại các Mandala Tây Tạng là sản phẩm của con người và cũng có thể là mặc khải...

Tam Tiểu Thư:

Vâng,vậy theo ông,nếu giả thuyết của ông là đúng thì chúng ta có thể xây dựng cái gì thực tế,cụ thể...giúp cho một đứa trẻ có 4,5 ngàn tuổi"đột biến" trưởng thành.

Ông Tổng Quản:

Theo cuốn tạp thư thì có đưa ra mô hình " Mandala made in Việt Nam".Tài liệu tạp thư mô tả như sau:

Theo lịch sử thì có ai đó,sau khi thực hành thiền định khoảng 4 thập kỷ thì phát hiện ra mô hình Mandala made in Việt Nam.Kỹ thuật này là con đẻ của nhu cầu làm sao nhập định không bao giờ thất bại,nhất là lúc sắp chết,lúc bỏ thân xác thế gian.Ở thời điểm lúc sắp chết,mà không có một kỹ thuật nào để đoán chắc nhập được định,thì quả thật là một tai họa,tất cả công lao thực hành thiền định đều tan thành mây khói.

Đầu tiên chúng ta chọn một nội dung trung tính(nói theo Vi Diệu Pháp gọi là sắc tướng,bản tánh sắc) các bài toán,có các con số,các bài toán rợ,có nội dung là tìm ra đáp số,để đạt được nội dung này,đòi hỏi nhiều thao tác,rất nhiều thao tác tâm lý thuộc đời sống lý trí của ý thức.Vì lợi ích của cá nhân,vì lạ,vì khó khăn,đòi hỏi phải chú ý mạnh mẽ và liên tục để nhận biết,xét đoán,suy luận,lý luận...Tóm lại,đối tượng làm toán rợ này đáp ứng được 2 yếu tố: Tầm (tìm một đối tượng duy nhất,có nội dung duy nhất là tìm ra đáp số). Tứ Phải tập trung cao độ,chú ý cao độ,có nhiều diễn tiến phức tạp,nên phải liên tục,không gián đoạn.Nếu không liên tục thì không liên tục,thì không thể có đáp số đúng.

Áp lực phải làm toán rợ thật nhanh,chính xác.Mặt khác,phải nhìn thấy các con số ở ngay luân xa AjNA (còn gọi là ấn đường) nên đạt được cảnh hữu sắc.Có thẻ bảo thao tác này là 2 trong 1.

Tam Tiểu Thư:

Cuốn tạp thư mua ở chợ trời đôi khi cũng được việc,nhất là "Đàn Pháp nhãn hiệu Việt Nam" có lẽ sẽ đóng góp ít nhiều cho những quý vị yêu thích bộ môn thiền định.





PHẢI CHĂNG NHƯNG TÀI LIỆU LUẬN và NHỮNG CHƯƠNG CỦA TRUNG BỘ KINH LÀ "CHÂN KINH" CỦA BỘ MÔN THIỀN ĐỊNH?


> Tam Tiểu Thư:
> Với thế giới phẳng, ai cũng có thể tìm những thông tin,tài liêu,comments đa chiều...cho bộ môn nào đó mà mình ưa thích, chỉ với vài cái click đơn giản, điều mình quan tâm sẽ dược đáp ứng ngay, thậm chí trên cả mức mong muốn.
> Tuy nhiên, với bộ môn thiền định thì hoàn toàn khác hẳn!. Trung tâm này, nọ, các thống kê các loại, đều nói về mặt tichf cực của bộ môn này. Những bài thuyết giảng đầy thuyết phục của các bật thầy...hay thì hay thật, nhưng khi nhìn lại mình thì thấy" tôi vẫn là tôi".
> Thiện định, vâng, tốt thì tốt thật đấy, nhưng thiền định thật sự là gì và phải thực hành ra sao?,trong bao lâu?, tiến trình thế nào, thì tôi hoàn toàn mù tịt?.Tôi tự hỏi, những vị được cho là thầy, là chân sư, họ thực sự có tin vào chinh mình hay không?, hay họ đích thực là nạn nhân của các fan, các tín đồ?!
> Với khả năng khiêm tốn của mình, tôi chỉ thấy co 2 tài liệu là: các cuốn luận và môt số chương của Trung bộ kinh có đề cập đến bộ môn thiền định ở nhiêu mặt. Về số lượng chia ra nhiều cấp: các lớp thiền định, các cảnh trời, các loại tâm, nhiều loại sắc vv...Về chất lượng:Chất lượng của một lớp thiền nào đó có : thấm nhuần, tẩm ướt, sung mãn, tràn đầy, vv...?.Chất lượng của tâm có thể : vô nhân, hữu nhân, thiện, bất thiên tâm, tâm vô tác vv...?
> Về cơ học ta tim thấy : Sơ tướng, thô tướng, quang tướng của công án thiền định, luồng tâm thức cho ta thấy các sât na tâm vv...?
>
> Ông tổng quản à ! Ông có nghĩ những tài liệu nói trên,xét về mặt lý thuyết cũng như thực tế, là những "chân kinh " hoàn thiện không thể thêm, bớt, thực sự là đáng tin cậy?
>
> Ô TQ:
> Tính chất xác thưc của một lý thuyết chỉ được chứng minh qua thực nghiệm của những ai có một trinh độ nhất định nào đó, mà người ta quen goi la "chuyen gia ","chuyên viên". Tuy nhiên,
>

PHẢI CHĂNG NHƯNG TÀI LIỆU LUẬN và NHỮNG CHƯƠNG CỦA TRUNG BỘ KINH LÀ "CHÂN KINH" CỦA BỘ MÔN THIỀN ĐỊNH?








Tam Tiểu Thư:
Với thế giới phẳng, ai cũng có thể tìm những thông tin,tài liêu,comments đa chiều...cho bộ môn nào đó mà mình ưa thích, chỉ với vài cái click đơn giản, điều mình quan tâm sẽ dược đáp ứng ngay, thậm chí trên cả mức mong muốn.
Tuy nhiên, với bộ môn thiền định thì hoàn toàn khác hẳn!. Trung tâm này, nọ, các thống kê các loại, đều nói về mặt tichf cực của bộ môn này. Những bài thuyết giảng đầy thuyết phục của các bật thầy...hay thì hay thật, nhưng khi nhìn lại mình thì thấy" tôi vẫn là tôi".
Thiện định, vâng, tốt thì tốt thật đấy, nhưng thiền định thật sự là gì và phải thực hành ra sao?,trong bao lâu?, tiến trình thế nào, thì tôi hoàn toàn mù tịt?.Tôi tự hỏi, những vị được cho là thầy, là chân sư, họ thực sự có tin vào chinh mình hay không?, hay họ đích thực là nạn nhân của các fan, các tín đồ?!
Với khả năng khiêm tốn của mình, tôi chỉ thấy co 2 tài liệu là: các cuốn luận và môt số chương của Trung bộ kinh có đề cập đến bộ môn thiền định ở nhiêu mặt. Về số lượng chia ra nhiều cấp: các lớp thiền định, các cảnh trời, các loại tâm, nhiều loại sắc vv...Về chất lượng:Chất lượng của một lớp thiền nào đó có : thấm nhuần, tẩm ướt, sung mãn, tràn đầy, vv...?.Chất lượng của tâm có thể : vô nhân, hữu nhân, thiện, bất thiên tâm, tâm vô tác vv...?
Về cơ học ta tim thấy : Sơ tướng, thô tướng, quang tướng của công án thiền định, luồng tâm thức cho ta thấy các sât na tâm vv...?

Ông tổng quản à ! Ông có nghĩ những tài liệu nói trên,xét về mặt lý thuyết cũng như thực tế, là những "chân kinh " hoàn thiện không thể thêm, bớt, thực sự là đáng tin cậy?

Ô TQ:
Tính chất xác thưc của một lý thuyết chỉ được chứng minh qua thực nghiệm của những ai có một trinh độ nhất định nào đó, mà người ta quen goi la "chuyen gia ","chuyên viên". Tuy nhiên,

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Tứ thiền định



Tứ thiền nghĩa là bốn cấp độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Xét về công phu tu thiền chúng ta có Tứ thiền . Còn để thành tựu những tính chất của Định, khi tu tập hành giả phải buông tâm không trú vào đâu cả, và như thế, tâm dễ mở rộng thênh thang. Năm mức định là Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Vô sỡ hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng định, Diệt tận định hay Diệt thọ tưởng định. Tu theo Thiền có phần dễ nhiếp tâm hơn tu theo Định.

Bốn mức thiền này đều có nhập và xuất, nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng công chứ không phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ, ta cũng phải mất công thoát ra chứ không phải tức thì được. Bình thường khi không nhập thiền, một thiền giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng nhưng không phải là bốn mức thiền này. Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động mà thôi. Tuy nhiên, cũng có khi một thiền giả vừa đi vừa nhập thiền rất sâu. Lúc đó, vị đó được xem là khởi thần thông, vì thần thông có nghĩa là vừa vào định vừa hành động. Chúng ta cần hiểu qua tính chất của Tứ thiền trước khi so sánh vơi Tứ thánh quả. Những điều được trình bày ở đây dựa vào bài kinh Sa Môn Quả trong Trường Bộ Kinh

Chánh niệm tỉnh giác

Muốn nhập định thì phải loại bỏ vọng tưởng, sau một thời gian luyện tập Thiền, thiền giả đạt được 'Chánh niệm tỉnh giác nghĩa là tâm không loạn động như trước, những suy nghĩ vẫn vơ vừa mới manh nha nổi lên đã bị phát hiện và loại bỏ. Lúc này hành giả đã cảm thấy một phần an lạc và sáng suốt hơn xưa rồi, tùy duyên mỗi người mà trực giác cũng phát triển một chút xíu, có khi chỉ cần nghe người ta nói nửa câu thì biết ý của họ là gì, thậm chí có khi chỉ cần nhìn mặt là biết kẻ ngay người gian, biết người đối diện đang nói thật hay nói dối..v.v.

Thiền là lĩnh vực tâm linh, nên không thể được hỗ trợ bởi bất cứ phương tiện vật chất nào, ta phải tự lực cánh sinh. Vì phải có quyết tâm cao, chịu đựng sự đau chân, mỏi lưng, chiến thắng chính tâm trí của mình, nên lâu ngày hành giả sẽ có đức tính kiên nhẫn, ý chí sắt đá, sức chịu đựng cao, trực giác tốt..v.v.

Sơ thiền

Các mức thiền này chỉ dành cho người có quyết tâm tu tập, lìa bỏ Ái Dục. Và có chuẩn bị tâm lý trước, vì nó cần một môi trường thật sự yên tĩnh, cách ly thế gian.
Để leo lên từng mức thiền, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào căn cơ từng người,có thể là vài ngày, vài tuần, có khi khoảng vài chục năm, có khi mười mấy hai mươi năm, có khi sang cả kiếp khác. Nếu kiếp này không lập nguyện, thề ước trước Phật thì sang kiếp sau đảm bảo quên sạch và Phàm phu vẫn là Phàm phu.

Sơ thiền là mức nhập định đầu tiên, nhưng phải là đã chứng được Chánh niệm tỉnh giác (CNTG) và phá trừ xong Năm triền cái. Hành giả như lọt vào một trạng thái thanh tịnh hơn, và tự động, chứ không còn phải gắng sức giữ gìn như trong CNTG nữa. Khi chứng được Chánh niệm, hành giả thấy tâm mình cũng đã là thanh tịnh rồi, nhưng còn phải khéo léo giữ gìn nhẹ nhẹ. Nhưng từ Sơ Thiền trở đi, hành giả không còn phải giữ gìn nữa mà tâm tự động an trú trong định. Hành giả thấy thân của mình chuyển động từ trạng thái cứng (lúc phá xong triền cái Trạo cử, xem Năm triền cái, sang trạng thái mềm lỏng như một khối nước gì nhớt nhớt giống như xà bông.

Tâm hành giả dĩ nhiên là vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn những ý niệm về công phu của mình, về thành tựu của mình. Những ý niệm này rất thầm lặng, nên hầu như hành giả không biết là mình đang còn ý niệm, cứ tưởng rằng mình đã hoàn toàn thanh tịnh. Phật diễn tả đó là trạng thái ly dục sinh hỷ, còn tầm còn tứ (xóa bỏ Ái Dục, đạt được An vui, nhưng còn tiềm ẩn).

Trong Sơ thiền, hành giả lìa bỏ được các ham muốn thế gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ, vừa thanh khiết, không cần phải giải trí bằng vật chất bên ngoài. Toàn thân hành giả luôn ở trong trạng thái vui sướng nhè nhẹ và tràn đầy. Sau khi chết, nếu vẫn còn giữ được trình độ này thì sẽ sinh vào cõi trời Sơ Thiền.

Cái ý niệm thầm kín về công phu và sự thành tựu của mình tạo nên một loại kiến giải Phật Pháp và tâm tự hào bí mật. Hành giả sẽ dễ dàng đối đáp trôi chảy và nắm bắt các lĩnh vực khó, trừu tượng, hay say sưa diễn thuyết lưu loát nếu có cơ hội. Vì vậy, tuy Sơ thiền rất là vĩ đại nhưng cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ đối với đạo đức.

Nhị thiền

Là kết quả tiếp theo nếu hành giả đủ công đức. Hành giả sẽ thấy toàn thân mình giống như nước trong mát tuôn trào bất tận mà Phật diễn tả như hồ nước được suối phun và mưa tuôn mãi mà không bao giờ lọt nước ra khỏi hồ. Dĩ nhiên nước thì mềm hơn, lỏng hơn nước sền sệt của xà bông. Từ toàn thân cứng của Chánh niệm, tiến lên Sơ thiền thì thân sền sệt như nước xà bông, tới Nhị thiền thì thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại còn thêm cảm giác tuôn tràn mãi mãi.

Lúc này những ý niệm thầm kín cũng biến mất, nên trong đời sống hành giả không còn ham thích trình bày phô trương, và rất hiền lành. Phật gọi là hết tầm hết tứ.

Lúc này hành giả thành tựu trí tuệ rất sắc bén nhanh nhạy, kiến giải Phật pháp là bất tận vô ngại, không ai có thể hỏi vặn vẹo được, việc gì nhìn thoáng qua là biết rõ, ngồi thiền rất lâu, thường biết trước giờ chết

Nếu đừng bị tà kiến xâm nhập thì đường giải thoát của người đạt Nhị thiền là chắc chắn. Nếu bị tà kiến, lầm cho mình là viên mãn, tưởng rằng mình đã kiến tánh thành Phật, thì hành giả hưởng hết phước kiếp này qua kiếp sau sẽ bị thoái đọa lui sụt xuống mức độ thấp hơn nhiều.

Tam thiền

Được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ với nội tâm là xả niệm lạc trú (dứt bỏ ý niệm, thường xuyên an lạc).

Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước, cũng vậy, niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc.

Ý nghĩa của xả niệm là hành giả đã vượt qua được Vô thức (theo khoa học, Vô thức chiếm hơn 90% cuộc sống của con người, ý thức chỉ chiếm phần nhỏ). Vượt qua được nó nghĩa là tâm hồn đã thật sự ổn định. Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ... đều bị kiềm chế.

Lúc này khi ngồi thiền nhập định, hành giả không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình.

Tứ thiền

Là mức thiền cuối cùng của các bậc thiền Sắc giới. Phật diễn tả đó là trạng thái xả niệm, thanh tịnh, không lạc, không khổ. Xả niệm của Tứ thiền hơn hẳn Tam thiền vì đã hoàn toàn vượt khỏi Vô thức, kể cả Ý thức. Trong con người ta, Vô thức đảm nhận việc điều khiển hệ hô hấp, tiêu hóa, các tuyến nội tiết... những thứ mà ta không chủ động điều khiển được. Chiến thắng được Vô thức nghĩa là có thể dừng được hơi thở, dừng mọi sự sống, nhập định vài trăm năm rồi xuất định, sống bình thường, sống tiếp cái tuổi ngày xưa. Còn Ý thức thì liên quan tới các Giác quan, chiến thắng được Ý thức sẽ khai mở những khả năng của giác quan như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông..v.v.


Thần thông là sức mạnh tâm linh, đạt được do thiền định hay do tu tập một pháp môn nào đó. Thần thông đầy đủ nhất là lục thông.

Các nhà triết học duy vật, đặc biệt là Triết học Mác - Lênin và hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng, vật chất quyết định ý thức. Nhưng khi có thần thông thì ý thức lại quyết định vật chất, thần thông cao cường có thể hô mưa gọi gió [cần dẫn nguồn], tự tạo ra một cõi không gian khác theo ý mình [cần dẫn nguồn]. Các giáo chủ của các tôn giáo thường tự tạo ra thiên đường và địa ngục cho những tín đồ của mình. Đó là lý do vì sao có một số tôn giáo phát triển mạnh đến ngày nay.

Ví dụ như các Lạt ma ở Tây tạng tu theo pháp môn Mật Tông, họ có thể sống trên đỉnh núi Himalaya lạnh lẽo chỉ với một mảnh vải che thân, có thể khinh công chạy trên cỏ, leo lên vách núi. Còn các nhà Yogi ở Ấn Độ thường xuyên luyện tập Yoga nên có vị sống ẩn tu trên núi vài trăm năm

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

Những Lời Khuyên Tâm Huyết Đọc Truyện Đêm Khuya) hay ý nghĩa thú vị

http://www.youtube.com/v/PWU63BQR0WI?version=3&autohide=1&autohide=1&feature=share&autoplay=1&showinfo=1&attribution_tag=kiD92aEvlPxfPZepxTqgKQ

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Thiền định lý thuyết 3


Thiền định lý thuyết 3




6 B i ệ t C ả n h T â m S ở
Tầm / Tứ / Thắng Giải / Tinh Tấn / Hỉ / Dục


* 6 Biệt Cảnh Tâm Sở gồm: Tầm / Tứ / Thắng Giải / Tinh Tấn / Hỉ / Dục.
* 7 Biệt Hành Tâm Sở gồm: Xúc / Thọ / Tưởng / Tư / Nhất Tâm / Mạng Căn / Tác Ý.
* 5 Thiện Tâm Sắc Giới gồm: Tầm / Tứ / Nhất Tâm / Hỉ / Lạc.

Trong 8 Thiện Dị Thục Tâm cũng có Tâm: Hỉ / Lạc.

Tại sao một Tâm vừa thuộc chủng loại này vừa thuộc chủng loại khác? Tại sao một Tâm vừa là Tâm Vương, vừa là Tâm Sở? Việc này có thể làm cho quý độc giả cảm thấy khó khăn, lẫn lộn khi tìm hiểu Vi Diệu Pháp.

Câu trả lời là:

CTR có đề cập trong những bài viết trước là một Tâm thuộc Vi Diệu Pháp, được xem giống như một nguyên tố hóa học. Do vậy nó có rất nhiều tính chất khi xem xét Tâm ở rất nhiều góc cạnh khác nhau.

Nếu xét ở góc cạnh tầm cỡ to nhỏ, thì Tâm này có thể thuộc về một loại Tâm lớn, nhưng đồng thời cũng có thể là Tâm nhỏ. Cũng một Tâm này, có thể hiện hữu ở Cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc, nhưng cũng có thể hiện hữu ở Cảnh Thiền Vô Sắc, thí dụ Tâm Lạc. Cũng một Tâm này, vừa có thể là Thiện Tâm, Dị Thục Tâm, có nghĩa là Tâm này đưa chúng ta đến Luân Hồi Sanh Tử, nhưng Tâm này cũng có thể là Tâm Duy Tác, nếu biết cách sử dụng không có tác ý. Rất mong quý độc giả quan tâm tới giải thích nói trên.

Mặt khác, những yếu tố Tâm của Vi Diệu Pháp, không mang tính chất cứng nhắc, thiếu sự mềm dẻo. Một yếu tố Tâm của Vi Diệu Pháp, xét về tất cả các mặt, hết sức là mềm dẻo, đa dạng, phong phú. Mặt khác còn phải kể đến ý nghĩa mà tùy từng tác giả sử dụng, mỗi người sử dụng mang tính chất biểu tượng khác nhau. Chúng ta có thể so sánh với ngôn ngữ toán học, trường phái toán học, ký hiệu toán học. Mỗi khoa học gia lại sử dụng, khai thác ít nhiều theo luận lý của mình.



.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.







ý n g h ĩ a 6 B i ệ t C ả n h T â m S ở







Tầm / Tứ / Thắng Giải / Tinh Tấn / Hỉ / Dục



Tầm: Đây là tâm sở quan trọng nhất của Sơ Thiền Hữu Sắc.

Tâm này có ý nghĩa đặc biệt là nó đàn áp các Tâm khác trên Đối Tượng.

Ở một vị thế khác nó còn có tên là Siêu Thế Đạo Tâm, Chánh Tư Duy.




Tứ: Tiếp tục đàn áp tâm trên đối tượng, như con ong bay xung quanh

một bông hoa. Tâm này trừ diệt tâm hoài nghi.




Thắng Giải: Là Tâm trên Đối Tượng, quyết định, lựa chọn như một quan tòa ra bản án.

Tinh Tấn: Cương quyết thực hiện, là trụ cột chống đỡ căn nhà.




Hỉ: Hoan hỉ, thích thú. Tâm Hỉ vừa ở trong khu vực của Thiện Tâm,

đồng thời cũng trong khu vực của Bất Thiện Tâm.

Đây là một kinh nghiệm mong quý độc giả ghi nhớ.




Dục: Ao ước, muốn làm. Tâm này hiện hữu ở 3 khu vực khác nhau

(Bất Thiện Tâm, Vô Nhân Tâm, Tịnh Quan Tâm). Xin giải thích như sau,

Tham Dục có thể là mong muốn những điều Bất Thiện, nhưng cũng có thể ham

muốn những điều không thiện, không ác, lại có thể ham muốn những điều chân chánh.

Rất mong quý độc giả làm quen với lối trình bày mang tính chất Vi Diệu Pháp này.




. . . . . . . . .




Cách ứng dụng để quan sát các Tâm (6 Biệt Cảnh Tâm Sở):


Sau khi làm những thủ tục, những tiến trình của từng cá nhân.
Chúng ta tìm một đối tượng đã chọn lựa từ trước để chú tâm.
Chúng ta nhắm mắt, ngồi bất động hoặc nằm, chúng ta tưởng tượng,
hình dung là mình nhìn từ luân xa Ajna ra phía đằng trước, cố gắng tìm thấy
hình ảnh đối tượng mình muốn quán tưởng, trong một thời gian mau nhất,
hình ảnh rõ nét nhất, và duy trì thời gian lâu nhất.

Công việc này là một tiến trình tâm lý, gọi là: Tầm, Tứ … Chúng ta liên tiếp
làm công việc này và cố nhớ trong công việc này có tất cả 35 Tâm Sở kèm theo.
Ngoài 7 Biến Hành Tâm Sở chúng ta đã học và ứng dụng,
thì nay chúng ta có thêm 6 Biệt Cảnh Tâm Sở.




. . . . . . . . .




Cách Quán Tưởng với 6 Tâm mới


Tầm: Tôi đang cố gắng để tìm ra Đối Tượng Quán Tưởng.

Tôi nghĩ đây là một Tâm quan trọng trong Thiền Định,

Tâm này đàn áp các Tâm khác, Tâm này gọi là Tầm.




Tứ: Tôi tiếp tục đưa Tâm liên tục lên Đối Tượng.

Tôi biết rằng đây là Tâm Tứ, tôi biết là tôi lựa chọn,

tôi đang quyết định chọn Đối Tượng nói trên …

Chúng ta tiếp tục làm với những Tâm khác.


. . . . . . . . .




Sự hữu ích của cách tập này


* Chúng ta hiểu rõ về tất cả các loại Tâm mà chúng ta đang sử dụng để tu Thiền Định,

* Chúng ta hiểu rõ công việc làm của mình chứ không phải là mù quáng.

* Nhờ việc quán sát các Tâm Sở, ta tự tin kỹ thuật Thiền Định mà mình đang thực hành.




.·:*´¨¨`*:·..·:*´¨¨`*:·.


Như nhóm CTR đã nhiều lần trình bày, thao tác này vô hình chung làm người tu Thiền Định phải chú ý tới quá nhiều Đối Tượng. Nó làm cho các giác quan, các khả năng tinh thần bị quá tải. Chúng ta Chú Tâm vào công việc này mạnh mẽ và liên tục, không khác gì một kịch bản dạng Man đa la (Mandala) mà các tu sĩ Tây Tạng thường sử dụng. Theo chủ quan của CTR, nếu quý độc giả nào đó có hứng thú với kỹ thuật này, thì việc Định Tâm có thể nằm trong tầm tay.

Mặt khác, thao tác này còn làm cho quý độc giả dần dần sở đắc được những kiến thức VDP. Đồng thời, nó có thể giúp phát hiện thêm những hiểu biết mới về những tài liệu mang tính chất huyền thoại do chứa đựng đầy rẫy những bí ẩn, thách thức trí tuệ con người qua nhiều thế kỷ. 六個不同的心靈風景
冥想理論3




心理六種不同的場景
範圍

優勝者
功夫

慾望



- 譚七個特種作戰部
其中包括:
提升
芹苴
思想

正義
一心
基於網絡
影響
* 5球譚添
其中包括:
範圍

一心

幸福

八水土不服添潭潭:歡樂,幸福。

為什麼心靈只是這個類別中的其他類?為什麼心靈是雙方在聯合中心,部有一個心?這可以使讀者感到困難,了解阿昆達摩混亂。

答案是:

CTR在以前的文章中提到的阿毗達摩中心,被認為是一種化學元素一樣。所以它有很多特質記時考慮了很多不同的角度。

考慮到小角度身材,其中心可能是一個偉大的心靈的一部分,但也可以是小心思。這又是一記中可以存在禪定禪有機卓越的 ,但也可以是場景中的無形的冥想,介意我們的例子。這也是一個中心,可能只是添潭潭水土不服,這意味著,該中心給我們帶來了輪迴,但頭腦也可以心靈Abyakata ,如果不使用工作。我們希望您感興趣的讀者如上所述。

另一方面,中心元素的阿昆達摩,而不是剛性的性質,缺乏靈活性。阿毗達摩心的元素之一,在各方面而言,是非常靈活,多樣和豐富。另一方面,更不用提這個意義上說,作者使用,每個用戶性質不同的符號。我們可以比較數學,高中數學,數學符號的語言。每個科學家使用,更談不上利用你的邏輯。



·: *' ¨¨ `* :· · : *' ¨¨ ` *: ·。







六種特殊含義的精神景觀







範圍

優勝者
功夫

慾望



範圍:這是最重要的心理禪定有機卓越。

該中心具有特殊的意義,因為它抑制了其他中心的對象。

在其他位置,它也被稱為大潭道超越的,正確的思想。




四:持續打擊對象為中心,如蜜蜂飛來飛去

一朵花。這消除心中懷疑的心態。




冠軍:心靈上的對象,決定,選擇作為一個法院的法官。

努力:堅決執行支柱支柱的房子。




喜:喜悅,興奮。無論是在面積譚添熱情,

也是不道德的中心區域。

這是一個經驗,你的讀者會記得。




教育:慾望,想要做什麼。該中心存在於三個不同的方面

(不道德潭潭無根,淨利息) 。請解釋如下,

貪婪可能希望不道德的,但也火腿

想要的東西都不好,不是邪惡的,真正的慾望。

我們希望各位讀者熟悉自然的方式呈現這個阿毗達摩。




。 。 。 。 。 。 。 。 。




如何觀察心靈應用( 6個特殊景觀服務中心) :


後的程序,過程中的個體。
我們發現從前面選擇的對象進行對焦。
我們閉上眼睛,坐下或躺在房地產,我們想像,
我想像鑑於在前面的AJNA輪,試圖找到
物體的圖像,您希望顯示在最​​快速的時間內,
清晰的圖像,維持時間最長。

這項工作是一個心理過程,稱為:範圍,四成一排...
這項工作,要盡量記住這一切工作伴隨35 。
另外七個變量行政服務中心,我們已經學會並應用,
但現在我們有另外六個特殊景觀服務中心。




。 。 。 。 。 。 。 。 。




六個新的思維方式與熟練


範圍:我試圖找出知覺的對象。

我認為這是靜心的一個重要中心,

潭潭是另一個打擊,被稱為智力遊戲。




四:我對象上,繼續圍繞不斷。

我知道,這是心臟,我知道,我選擇,

我決定題材...

我們將繼續與另一個心靈。


。 。 。 。 。 。 。 。 。




這種做法的有用性


我們了解我們用來練習冥想的心靈,

*我們理解我們的工作是不是盲目的。

*感謝監督中心處,我們有信心,他的冥想技術實行。




·: *' ¨¨ `* :· · : *' ¨¨ ` *: ·。


由於CTR組一再表明,這種操作使得人們無形的冥想太多關注的主題。這是有道理的,精神上超載能力。我們感興趣的是這個強大而持續的工作,不像曼荼羅形式的腳本(曼陀羅) ,西藏僧侶經常使用。如果您對此技術感興趣的讀者,它根據CTR的主觀,可能是因為你的注意力就在眼前。

另一方面,這個操作也逐漸使讀者獲得正法的知識。同時,它可以幫助發現新的見解,這份文件包含了由傳奇充滿了神秘感和挑戰人類的心靈了幾百年的性質。...

http://vidieuphapctr.blogspot.tw/2013/10/thien-inh-ly-thuyet-3.html